"Nếu trong nước hay có loạn là vì nhân-dân bị thiếu-thốn. Từ nay sắp tới, lương-bổng của ta là 500$ một tháng thì ta chỉ lãnh 200$ mà thôi, còn lại 300$ ta giao cho các thầy đem ra giúp-đỡ kẻ nghèo-khó." ** Duy-Tân ** (năm 8 tuổi)

 

                                       Ngọn Hồng Đăng  

 

Một người bạn, vào buổi sáng cuối tuần, trao cho tôi một cuốn băng Video và nói “Về xem ngay đi, bỏ qua rất uổng”. Đó là cuốn phim “Hãy treo cao những ngọn hồng đăng” (Raise the red lanterns) của đạo diễn đang nổi tiếng Trương Nghệ Mưu (Zang Yimou) cùa Trung Hoa lục địa. Trương Nghệ Mưu và những người bạn đồng nghiệp và đồng khóa của ông, lớp đạo diễn thuộc thế hệ thứ 5 của Trung Quốc, hiện nay đang làm mưa gió trong cộng đồng điện ảnh thế giới. Và cũng chính ông là người được ủy thác dàn dựng buổi lễ khai mạc hoành tráng nhất từ xưa đến nay cho Thế Vận Hội Bắc Kinh với tổn phí nhiều trăm triệu dollars.

                                                              ***

 

         Đêm khuya, tôi ngồi một mình, vặn volume nhỏ, theo dõi cuốn phim này. Sự vắng lặng về đêm thích hợp với không khí của cuốn phim. Đạo diễn Trương Nghệ Mưu đã đưa chúng ta trở ngược về dĩ vãng nước Trung Hoa đầu thập niên 20 của thế kỷ trước. Đây là thời kỳ đã xảy ra cuộc cách mạng Tân Hợi (1911), đế chế Mãn Thanh đã sụp đổ nhưng nếp sống phong kiến nghìn năm vẫn còn trĩu nặng. Lâu đài của một đại gia, ngoài cửa hai con sư tử bằng đá nhe nanh vuốt nằm chầu, bức tường cao thăm thẳm bao quanh khu gia trang tòa ngang dẫy dọc, dinh này tiếp nối phủ kia. Sau cánh cửa gỗ to lớn nặng nề này, thời gian như ngừng lại. Năm xưa tôi có xem một phim của Pháp kể chuyện một lâu đài Trung cổ. “La loi s’arrête ici”, luật pháp phải ngừng lại ở đây, trước ngưỡng cửa của những lâu đài. Đây là đất riêng của lãnh chúa, đất đã được “phong hầu kiến ấp”. Nơi đó lãnh chúa là thượng đế. Thì bây giờ, bên Trung Hoa, đây là loại “tử cấm thành” thu nhỏ mà đại chủ nhân (great master) là một ông vua…

         Một thiếu nữ 19 tuổi (Củng Lợi đóng), cha mẹ chết, được bà dì ghẻ bán cho đại gia làm thiếp. Câu chuyện bắt đầu từ khi người thiếu nữ bước qua cánh cổng của “tử cấm thành”. Và sau đó từng bước, từng bước những cung bực của thất tình lục dục dàn trải ra, xoắn lấy nhau và cuối cùng trở thành bi kịch. Thiếu nữ này về đây làm vợ thứ 4. Đã có một bà vợ cả già có con trai lớn ngồi đó làm vì. Ba người thiếp: Thứ hai, thứ ba và người mới đến thứ tư tranh nhau sự sủng ái. Dấu ấn của sự sủng ái là những chiếc lồng đèn màu đỏ. Mỗi người vợ của đại chủ nhân ở một dinh cơ riêng biệt trong “Tử Cấm Thành”. Mỗi đêm đại chủ nhân “ngự” ở đâu thì đèn lồng đỏ được thắp lên ở đó. Các bà vợ tranh nhau để được thắp đèn lồng đỏ cho nơi ở của mình. Cũng như các phi tần ngày xưa tranh nhau đặt lá dâu trước cửa “tiêu phòng” để mong xe dê của nhà vua ngừng lại đêm đó. Mỗi buổi chiều, các bà vợ thứ phải ăn mặc đẹp ra đứng trước cơ dinh của mình, đại chủ nhân đi qua, hoặc đứng trên lầu cao nhìn xuống, rồi ra lệnh cho quản gia. Quản gia nhận lệnh của ông chủ, vòng tay mà hô lớn “thắp đèn lồng ở dinh số…”

         Chiếc đèn lồng đỏ trở nên dấu hiệu của quyền uy. Nơi nào được thắp đèn nhiều, nơi ấy được đại chủ nhân dành nhiều ưu ái. Ngược lại đèn lửa tối tăm thì “con hầu nó cũng khinh”. Đại chủ nhân ở đây giống như Tây Môn Khánh trong Kim Bình Mai (đệ nhất dâm thư Trung quốc). Ngoài 3,4 bà thê thiếp, Tây Môn Khánh còn sẵn sàng dùng luôn con hầu, người ở. “Thê bất như thiếp, thiếp bất như tì” (Vợ không bằng vợ nhỏ, vợ nhỏ không bằng con hầu). Đại chủ nhân ở đây cũng vậy, “dùng luôn con hầu” của Củng Lợi, người thiếp thứ 4 vừa đến. Cái vòng oan nghiệt đã có sẵn với bà vợ thứ 2, thứ 3, lại thắt thêm nút giây oan trái với người đầy tớ gái.

         Bà vợ cả, già rồi “như một thứ đồ cổ” trong nhà, ngồi yên vì con trai lớn của bà, “đại công tử” đã trưởng thành, một chàng trai khôi ngô tài hoa, thổi sáo rất hay. Nghe tiếng sáo trên lầu cao, “dì Tư” bước lên xem và chàng trai ngơ ngẩn trước sắc đẹp não nùng của người vợ trẻ của cha mình. Và “dì Tư” cũng lặng người, bồi hồi xao xuyến.

         Vòng giây oan trái thắt lại trong quan hệ với người hầu gái. Người hầu oán hận dì Tư đã tranh ngôi thứ thiếp của mình. Bà vợ thứ hai thuộc loại “bề ngoài thơn thớt nói cười, bề trong nham hiểm giết người không dao”. Bà này đã bắt đầu xế bóng, chỉ có một đứa con gái với chủ nhân, nên liên kết với người hầu gái này tìm cách hạ các tình địch: Đánh thuốc độc dì Ba, trù ếm dì Tư. Một hôm, dì Tư xông vào phòng người hầu gái, thấy đèn lồng đỏ thắp vụng trong phòng. Điều này chứng tỏ chủ nhân vẫn thường đến đây vui thú. Theo gia pháp, người hầu gái phải bị trừng trị nặng nề. Người tớ gái phải qùy bên đống tro tàn của các đèn lồng bị đốt. Bà vợ cả mở ra lệnh khoan hồng cho người đầy tớ, cho phép đứng lên, trở lại làm việc bình thường nếu ngỏ lời xin lỗi dì Tư. Nhưng oán hận đã ngút trời, người tớ gái nhất định qùy trong cơn bão tuyết cho đến khi ngã lăn ra bất tỉnh. Đem vô nhà thương thì chết, miệng ứa máu tươi, mắt mở trừng trừng.

         Trong một cuộc đến thăm, dì Ba mời dì Tư sang phòng mình xoa mạt chược. Dì Tư bất ngờ chứng kiến một cuộc tư tình giữa dì Ba và ông thầy thuốc của gia đình. Dì Ba là người phơi phới nhất trong nhà. Dì Ba vốn là ca sĩ nên suốt ngày ca hát véo von. Dì Ba vững chân rồi, có một đứa con trai với đại chủ nhân, có ông bác sĩ gia đình trẻ đẹp khỏe mạnh sẵn sàng lui tới.

Một buổi sớm mai, đi lang thang trên cao ốc của gia trang, dì Tư chợt bắt gặp một căn nhà nhỏ đứng chơ vơ. Căn lầu hoang phế, nhện giăng tứ phía, cỏ mọc rậm rì toát ra hơi lạnh của tử thần. Hỏi ai cũng không nói rõ, chỉ biết rằng không nên đến gần. Đã có hai người đàn bà treo cổ trong căn nhà ấy.

         Hai người đàn bà đã chết trong đó ? Vì sao mà chết oan uổng ? Người chết đó cũng đầy phẫn hận như kiếp đàn bà nô lệ sống trong khuôn viên vô hồn và lạnh lẽo này chăng ? Những câu hỏi ấy như những giọt cường toan nhỏ xuống tâm hồn dì Tư, cộng thêm nỗi ân hận vì mình mà người hầu gái kia đã chết. Trong ngày sinh nhật thứ 20 của mình, dì Tư Củng Lợi đã uống rượu say. Rượu vào quên hết mọi điều gìn giữ. Dì Tư vừa cười vừa khóc, nói ra điều bí mật chết người của dì Ba: Dì Ba đang ngoại tình với ông thầy thuốc gia đình. Dì Ba hiện đang vắng nhà, đi ra ngoài hò hẹn…Con người như rắn độc, dì Hai tức thì ra tay hành động. Khi dì Tư tỉnh rượu bởi tiếng ồn ào khác lạ, trời đã về khuya, tuyết rơi hàng hàng lớp lớp. Nhìn ra ngoài, trên từng lầu cao của Gia trang, một đoàn gia nhân đang kéo lê một người đàn bà dãy dụa, kêu khóc vật vã. Người ấy là dì Ba bị bắt gặp qủa tang đang ngủ với ông thày thuốc. Toán gia nhân vô hồn như một lũ đầu trâu mặt ngựa, kéo lê người đàn bà lên căn lầu bỏ hoang. Dì Tư Củng Lợi vội vàng lên theo, nấp sau bức bình phong bằng đá. Tuyết vẫn rơi trắng xóa đầy trời. Người đàn bà bị đẩy vào căn nhà trống. Một gia nhân có đem theo một cuộn dây thừng. Dì Củng Lợi chợt hiểu ra, bừng tỉnh cơn say cùng một lúc với tiếng thét thất thanh của người vừa bị treo cổ. Người ấy là dì Ba, người vẫn ca hát véo von, bây giờ chỉ còn lại tiếng rên khò khè rồi tắt hẳn.

         Sau đó dì Tư trở nên điên loạn, thơ thẩn như một bóng ma vất vưởng trong nhà. Dì Tư buồn cho số phận của mình hay ân hận vì mình khiến hai oan hồn đã chết ? Đến mùa hè năm sau, đúng một năm khi dì Tư đến gia trang này, lại có một đám rước dâu nữa. Dì Năm, một cô gái xinh tươi lại vừa mới đến. Đôi mắt ngây thơ vô tội giống dì Tư năm ngoái. Không biết số phận nào sẽ chờ đợi người hầu thiếp thứ năm ?

         Câu hỏi ấy đặt ra cho toàn thể người xem khi cuốn phim chấm dứt. Trương Nghệ Mưu đã không trả lời câu hỏi trong phim. Ông soi rọi rất kỹ về cuộc sống trong nội phủ, về số phận từng nhân vật. Nhưng đặc biệt đại chủ nhân (the great master), người chịu trách nhiệm chính trong tấn bi kịch này, từ đầu đến cuối không cho thấy mặt, chỉ là giọng nói hoặc chỉ là chiếc bóng sau lưng. Một cái bóng âm thầm, nhưng uy quyền tột đỉnh.

         Xem xong phim này, đầu óc người xem, trong đó có tôi bị tràn ngập những câu hỏi không được trả lời. Nó trở thành một khúc mắc không nguôi. Một tác phẩm điện ảnh khi xem xong, không quên ngay được như loại “mì ăn liền”, mà còn đọng lại trong tâm hồn ta một dư vị, không hẳn ngọt ngào, có khi còn chua chát. Nhưng theo tôi, đó mới là dấu ấn tài năng của nhà đạo diễn bậc thầy.

 

Trung Đạo

 

 

        

 

 

 

 

 

 

 

 

Thống-Kê Vào Làng

Viet Nam 49.4% Viet Nam
United States of America 22.9% United States of America
Italy 10.5% Italy
Germany 8.5% Germany
Canada 2.6% Canada
Australia 1.4% Australia
France 1.0% France

Total:

68

Countries