"Sống không phải là ký-sinh trùng của thế-gian, sống để mưu-đồ một công-cuộc hữu-ích gì cho đồng-bào, tổ-quốc." ** Phan Chu Trinh **

 

Bin                                              Binh Pháp Tôn Tử 

 

       Quận Huệ Dân ở vùng châu thổ sông Hoàng Hà được xem là nơi sinh quán của Tôn Tử (Sun Tzu), một bộ óc thông thái thời cổ đại mà Trung Cộng (TC) tin rằng có thể thuyết phục thế giới về sức quyến rũ của nền văn hoá TQ. Tại một khách sạn địa phương, đang tổ chức hội nghị hằng năm về Tôn Tử (TT), nhằm tôn vinh một chiến lược gia trong thế kỷ thứ 6 trước Tây Lịch. Trên màn ảnh điện tử khổng lồ hiện lên một cụ già có chòm râu dài và quyển sách mỏng, viết về “Binh Pháp” gồm 6.004 chữ. Tôn Tử là tác giả của nhiều câu cách ngôn súc tích mà các chuyên gia quận sự trên khắp thế giới ngưỡng mộ. Đại tá Lưu Xuân Chí giám đốc hội nghiên cứu Binh Pháp Tôn Tử (BPTT) phát biểu: “Tôn Tử là gia tài chung của mọi người trên thế giới. Và sự quảng bá tác phẩm của TT sẽ là bước quan trọng trong nỗ lực tăng cường nhu lực (soft power) của TC. Một trong những nhận xét nổi tiếng của TT: “Nhà lãnh đạo có tài sẽ chinh phục được đối phương mà không cần phải giao tranh”. Đây là bằng chứng để thế giới thấy rằng TC luôn luôn yêu chuộng hóa bình”.

       Các lãnh tụ TC muốn thuyết phục Hoa Kỳ là họ không có ý đồ gây ra chiến tranh và TC dùng Tôn Tử làm cứu cánh. Vào năm 2006, Chủ tịch Hồ Cẩm Đào tặng TT George Bush cuốn “Binh Pháp” song ngữ bằng tiếng Anh và Hoa, in trên lụa, có ẩn ý nói qua Binh Pháp, phuơng cách hữu hiện để chiến thắng tại Afghanistan và Iraq mà không nhất thiết phải đánh phủ đầu. Giả Khánh Lâm, ủy viên hàng thứ tư trong cơ cấu tối cao đảng CS Trung Quốc, phát biểu nên dùng BPTT để quảng bá cho “nền hòa bình vững bền và thịnh vượng chung”. Tháng Bảy năm nay, viện Đại Học Nhân Dân Bắc Kinh cũng tặng quyển Binh Pháp cho Đô Đốc Micheal Mullen, Tham Mưu Trưởng Liên Quân Hoa Kỳ khi ông đến thăm Bắc Kinh.

       Trung Cộng xưa nay vẫn tự hào về Tôn Tử. Và Mao Trạch Đông là người hâm mộ TT đến mức đã cho gián điệp xâm nhập hàng ngũ của Tưởng Giới Thạch để đánh cắp bản chính cuốn “Binh Pháp”. Trong suốt thập niên 1990, bước sang thế kỷ 21, Trung Cộng khai triển tư tưởng của Đặng Tiểu Bình: “xây dựng kinh tế và gầy dựng nhu lực”, phải trở thành ưu tiên hàng đầu. Ông Đặng thường nhắc đến câu nói của TônTử: “Tài tình nhất là không phải chiến đấu, vì khi giao tranh thì có nghĩa đã thất bại về chính trị”.

       Tôn Tử là tên tuổi, trong số các triết gia cổ xưa (Lão Tử, Khổng Tử) của Trung Hoa, còn chổ đứng trong thời kỳ cộng sản. Trong cuốn sách mới đây của Henry Kissinger, ông ta kinh ngạc khi cấp lãnh đạo TC đã dựa nhiều vào những chiến lựợc ngày xưa. “Mao vay mượn tư tường TônTử nhiều hơn của Lenin trong lãnh vực đối ngoại. Mao tính khí bất thường thật nguy hiểm. Mao áp dụng khá nhiều kế sách của Tôn Tử trong lãnh vực ngoại giao, quốc phòng, kinh tế, chính trị, cùng một lúc, khiến chiến lược xem chừng mâu thuẫn nhau”.

       Nhưng nhìn kỹ hơn sẽ thấy sự sai lầm của BPTT khi đem ra làm phương tiện tạo dựng “nhu lực”. Nỗ lực Trung Cộng nhằm uốn nắn Tôn Tử thành một nhân vật yêu chuộng hòa bình, nhưng căn bản “binh pháp” nhằm hướng dẫn cách thắng trận, và đã được quân lực Hoa Kỳ tận tình nghiên cứu không kém gì Mao. Sam Crane thuộc Williams College tại Massachusetts, ông kể cho sinh viên theo học lớp Tôn Tử của ông (sinh viên đang chuẩn bị nhập ngũ) rằng: “Binh Pháp” khuyến cáo nên đối xử tử tế với tù binh. Nhưng, yếu tố làm mọi người nhận ra bộ mặt nham hiểm của quyển sách này, chính là yếu tố chiến tranh và tranh giành. Chiến tranh chiếm đất không phải là mục tiêu của Tây Phương. Người Trung Hoa mới thực sự có khiếu về chiến tranh như lịch sử đã chứng minh.

       Các chiến lược gia Hoa Kỳ đọc BP để biết rằng TC không phải là một nước có nhu lực quyến rũ đáng tin cậy, mà là một quốc gia thích gây hấn như lịch sử đã chứng minh. Trung Tá Richard Davenport, thuộc Tâm Lý Chiến, tiết lộ: (2009) TC đang xử dụng kế sách Tôn Tử để mở cuộc chiến trên mạng điện toán với Hoa Kỳ, theo câu nói TT “Điều quan trọng nhất trong chiến tranh là tấn công ngay chiến lược của kẻ thù”.

       Nhiều người Tây Phương hâm mộ Tôn Tử cũng là nhờ Hollywood, nguồn nhu lực đáng kể của Hoa Kỳ. Trong cuốn phim “Wall Street” (Michael Douglas đóng), đã trích một câu nói cuả Tôn Tử “mỗi trận đều có cơ may thắng cuộc trước khi giao tranh”, câu này mang vẻ thần bí, hấp dẫn các sinh viên theo học ngành kinh doanh.

Giáo sư Minford nói ông thật sự khó hiểu về chuyện này: “Tôi phải vật lộn với quyển sách bằng tiếng Hoa, một tập sách mỏng hết sức kỳ lạ và nghịch nhĩ khó chịu, trình bày lộn xộn. Sách gồm một số câu văn có thể đã sai lạc hoặc bị sửa đổi rất nhiều, lập đi lập lại vô nghĩa”. Ông gọi tác phẩm này là một cẩm nang phát-xít, hướng dẩn áp dụng những quan niệm có tác dụng đưa đến chiến tranh toàn cầu, đưa đến tiêu diệt toàn thể nhân loại”.

       Một số người Hoa cũng công khai lên tiếng, không nên dùng loại văn hoá cổ xưa để phát huy nhu lực. Bàng Trung Anh, viện Đại Học Nhân Dân Bắc Kinh, cũng đồng ý phương pháp này không giúp Trung Cộng được thế giới nể trọng hơn. Ông Bàng, nguyên là một nhà ngoại giao, cảnh cáo: làm như vậy không có lợi mà trái lại còn cho thấy rõ “tình trạng nghèo nàn tư tưởng” tại TC ngày nay. Vì không còn có tấm gương, khuôn mẫu nào cho TC, người ta lại phải hướng về Lão Tử, Khồng Tử và Tôn Tử. Ông Bàng khẳng định chỉ có dân chủ mới là nguồn nhu lực tốt nhất. Chủ Tịch Hồ Cẩm Đào không ngó ngàng gì đến ý tưởng của ông Bằng.

       Hiện nay trên thế giới, tập “Binh Thư” được dịch ra khoảng 30 ngôn ngữ khác nhau, liên quan đến lãnh vực chính trị, quân sự, kinh tế, ngoại giao…và có khoảng 800 bộ liên hệ đang lưu hành trên khắp thế giới.

Nhật Bản là quốc gia nghiên cứu bộ sách này sớm nhất. Từ thời Ngụy Tấn, BPTT thông qua bán đảo Triều Tiên, truyền vào Nhật Bản (734 trước tây lịch) và từ đó đến nay người Nhật đã xuất bản mấy trăm tác phẩm liên hệ.

Hàn Quốc cũng là quốc gia có nhiều sáng tạo trong tiến trình nghiên cứu bộ sách. Từ 1953 đến nay, họ đã xuất bản trên một trăm đầu sách loại này. Bước sang thế kỷ 21, mỗi năm đều có sách mới về BPTT và tiêu thụ rất mạnh. Bộ sách bốn quyển tựa đề “Tiểu Thuyết Binh Pháp Tôn Tử” đã tái bản năm lần, số lượng sách in lên đến hai triệu bộ, được dịch ra nhiều ngôn ngữ để phát hành ở nước ngoài.

Sớm hơn, năm 1772, Giáo sĩ Joseph Marie Amiot phiên dịch cuốn sách và xuất bản tại Paris nhan đề “Nghệ thuật quân sự Trung Quốc”, giữ nguyên 13 thiên bản gốc. Quyển sách thu hút sự quan tâm lớn của độc giả, đặt biệt trong giới chuyên gỉa quân sự Pháp.

Anh Quốc cũng nghiên cứu BPTT không kém. Bản tiếng Anh xuất bản vào năm 1904 có tiếng vang rất lớn. Ngoài ra, tại Đức và nhiều nước khác phương Đông cũng có nhiều bản dịch bộ Binh Pháp này.

       Bộ Binh Pháp được dùng làm tài liệu giảng dạy trong các học viện quân sự, kinh tế…Trong thập niên 60, một vị tướng người Anh nổi tiếng trong chiến tranh thế giới thứ hai là Bernard Mongomery đến thăm Trung quốc. Tướng này đề nghị Mao nên dùng BPTT làm sách giáo khoa cho các viện, trường quân sự trên thế giới. Hiện nay ở Mỹ, trường West Point đều xem bộ sách này thuộc loại sách chiến lược.

       Muộn hơn BPTT 2,300 năm, năm 1812 một tác phẩm khác mang tên “Bàn Về Chiến Tranh” (On War) ra đời do Clausewitz viết ra. Ông là nhà lý luận lịch sử quân sự người Đức. Bộ sách gồm 3 quyển, 120 chương, khoảng 700.000 chữ. Quyển sách thu hút sự chú ý đáng kể. Nhưng theo những chuyên gia hàng đầu, thì bộ BPTT vẫn chiếm vị trí số một, với 13 thiên, vỏn vẹn 6.004 chữ. BPTT trình bày thấu triệt về quy luật chiến tranh, toàn diện về chiến thuật chiến lược với tư tưởng biện chứng pháp phong phú. Và nghiên cứu hàng loạt về đối lập, chuyển hoá mâu thuẩn, liên quan đến chiến tranh như địch-ta, chủ-khách, nhiều-ít, mạnh-yếu, công-thủ, thắng-bại, lợi-hại… để đưa ra chiến lược và chiến thuật thích hợp. Chiến lược chiến thuật quân sự chặt chẽ, triết lý sâu xa, biến hóa vô cùng của binh pháp đã thu hút người đọc đến cao độ.  

“Binh Pháp Tôn Tử” trong lãnh vực kinh doanh 

Sau thế chiến thứ hai, nhiều công ty kinh doanh trên thế giới lấy BPTT làm kim chỉ nam cho việc giành thắng lợi cạnh tranh trên thương trường. Nhật Bản lấy Binh Pháp này làm tài-liệu phải-đọc cho giới chức quản lý kinh tế, việc đào tạo nhân viên. Tại Mỹ, đại học Harvard dùng BPTT trong khóa trình đào tạo MBA.      

Nhiều học giả và các nhà doanh nghiệp ngày càng nhận rõ sự quan trọng việc sử dụng Binh pháp. Ở Nhật Bản còn hình thành một học phái kinh doanh theo BPTT. Có câu chuyện đăng trên Thời báo kinh tế, số ra ngày 24.1.1983, như sau: Một phái đoàn doanh nghiệp của Trung quốc sang thăm Nhật Bản, để học hỏi kinh nghiệm quản lý. Nhật Bản cho biết kinh nghiệm của họ đều phát xuất từ đất nước Trung Quốc(!) và họ đã tặng cho phái đoàn TC cuốn Binh Pháp bằng tiếng Nhật.

       Mỹ cũng áp dụng rộng rãi Binh pháp vào quản lý doanh nghiệp. Trong cuốn “Lịch sử tư tưởng quản lý” (The History of Managerial Thoughts) xuất bản năm 1972, học giả Claude S. Gorge viết: Nếu muốn trở thành nhân tài về quản lý, các bạn không thể bỏ qua cuốn binh pháp này.

“Binh chiến” và “Thương chiến” đều xử dụng Binh Pháp để chinh phục đối thủ. Binh pháp nói đến quy luật dụng binh, tác chiến (chiến lược, chiến thuật) trong chiến tranh, đồng thời đây cũng là một triết học về cạnh tranh, bao gồm cạnh tranh trên thương trường.

       Trong Binh pháp, Tôn Tử có ghi: “Trí giả chi lự, tất tạp ư lợi hại. Tạp ư lợi nhi vụ khả tín dã; tạp ư hại, nhi lự khả giải dã”. Tướng soái thông minh khi suy xét một vấn đề, tất yếu phải nghĩ đến cả hai mặt lợi/ hại. Trong trường hợp bất lợi, phải nhìn thấy được điều kiện có lợi để nâng cao lòng tin vào thắng lợi; trong trường hợp thuận lợi, cũng cần phải nhìn thấy yếu tố bất lợi, để tránh hậu hoạ.

       Áp dụng vào lãnh vực kinh doanh, trong bối cảnh diễn ra cạnh tranh quyết liệt trên thương trường, nhà kinh doanh phải nắm rõ cơ hội lẫn thách thức, rồi có sách lược quyết định; trong tình thế “dầu sôi lửa bỏng” mà vẫn chần chừ do dự thì sẽ đưa đến hậu qủa sự nghiệp tiêu tan. Năm 1964, Công ty điện khí Nhật Matsushita đột nhiên tuyên bố bỏ dở kế hoạch phát triển máy tính điện tử cỡ lớn; lúc đó, Matsushita đã bỏ ra thời gian 5 năm, chi ra hơn một tỷ Yen để nghiên cứu phát triển, nhưng phải bỏ dở vì thị trường cạnh tranh khốc liệt. Đối với sản phẩm này, các công ty Fujitsu, Hitachi đang bứt lên ở giai đoạn cuối cùng. Nếu Matsushita tiếp tục, vẫn có thu nhập trước mắt ở một mức độ nào đó, nhưng không thể tồn tại lâu dài. Qua phân tích các thông tin lợi hại, Matsushita dứt khoát rút lui, không thể đưa sự nghiệp công ty ra chơi trò đỏ đen. Đây là sự rút lui khôn ngoan, có cơ sở khoa học, không nuối tiếc công của đã bỏ ra, vì càng đi tới thì hoạ càng lớn.

       Binh Pháp TT còn ghi, nghệ thuật dụng binh, trước hết phải tạo ra điều kiện mà địch khó thắng, sau đó chờ đợi thời cơ, khi địch phạm sai lầm, ta sẽ tấn công thần tốc đoạt chiến thắng. Phép dụng binh không phải hy vọng địch đừng tấn công, mà phải dựa vào lực lượng của chính mình khiến địch không thể chiến thắng được. Sách còn nhắc nhở phải kiên trì xử dụng gián điệp để nắm rõ tình hình.

       Nhà doanh nghiệp vận dụng Binh pháp để phát triển kinh doanh, có đủ thông tin về đối phương, củng cố thực lực của mình, xử dụng tình báo theo dõi tình hình đối phương; theo sát phát triển của thị trường, chọn đường hướng kinh doanh hiệu quả. Đây chính là biện pháp để sinh tồn và phát triển.

       Công ty Coca Cola ra đời 1892 với ưu thế: sản phẩm có hương vị đặc biệt và cách mua hàng thuận tiện. Trước năm 1929, Coca Cola chưa hề bị cạnh tranh, các nhà kinh doanh say men chiến thắng, mất cảnh giác. Khi đó, muốn giải khát, khách hàng chỉ cần bỏ 5 cent vào máy bán hàng và máy sẽ cho ra một chai Coca mẫu mã đẹp với dung lượng 6,5 ounces, rất tiện lợi.

       Nhìn rõ yếu điểm của đối thủ, là xử dụng chai nhỏ, Pepsi Cola phát động cuộc tấn công với chai dung tích lớn hơn: Cũng 5 cents, nhưng mua Pepsi Cola thì được chai 12 ounces. Và hương vị của Pepsi thích hợp với giới trẻ. Cuộc“tấn công” này đẩy Cola vào thế phải chia đôi thị trường.

       Tóm lại, trên thương trường cũng như trên chiến trường, nếu không củng cố thực lực và mất cảnh giác, trước sau gì cũng bị đối phương đánh bại. Trong Binh Pháp Tôn Tử có câu: “Bất khả thắng tại kỷ, khả thắng tại địch”.

       Các nhà chiến lược Hoa Kỳ đọc “Binh pháp”, thấy rõ rằng Trung Cộng không phải là nước có nhu lực quyến rũ và đáng tin cậy, mà là có thể trở thành kẻ thù. Trung Tá Richard Davenport, viết trong Tập San Quân Lực, năm 2009: TC đang áp dụng kế sách của Tôn Tử để mở cuộc chiến trên mạng với HK. Ý đồ này là điều quan trọng trong chiến tranh, nước Mỹ phải ra tay nhanh chóng dập tắt chiến lược của kẻ thù.

      

       Hollywood là nguồn “nhu lực” đáng kể của Hoa Kỳ, hơn hẳn mọi nỗ lực bành trướng “nhu lực” của TC. Phim ảnh, âm nhạc, Coca cola, Mc Donald, quần Jean…đã và đang ảnh hưởng mọi nơi trên thế giới.

      Lúc sau này, quận Quảng Nhiêu cũng tuyên bố đây chính là nơi sinh cuả Tôn Tử. Quận này giàu có hơn Huệ Dân nhiều lần, nhờ kỹ nghệ sản xuất lốp xe, hóa chất, đã đặt móng để xây “Viện Tôn Tử” khổng lồ cho riêng họ. Theo lịch trình sẽ khai trương vào năm 2013 với kinh phí khổng lồ là $250 triệu đô. Nhưng Quảng Nhiêu sẽ gặp khó khăn để biến Trung Tâm Tôn Tử thành một biểu tượng “nhu lực”. Vì cách đó 430 dặm, Disneyland đã bắt đầu xây một khu giải trí khổng lồ tại Thượng Hải và sẽ là trung tâm Disneyland lớn nhất thế giới với số tiền đầu tư nhiều tỷ đô la. Thế thì nhu-lực Hoa-Kỳ đã chinh phục “5000 năm văn hiến nguy nga tráng lệ của Trung Hoa”.

Tôn Tử có nói một câu thích hợp với tình trạng khó khăn của Trung Cộng: “Biết địch biết ta trăm trận trăm thắng” Nếu Trung Cộng muốn ảnh hưởng được thế giới, họ phải suy nghĩ lại về các giá trị sai lầm họ đã phát huy trong nước. Chỉ có Dân Chủ là nền móng “Nhu Lực” lớn nhất.

Trung Đạo 

          Source: The Economist

          Sun Tzu For Success

          Sun Tzu’s Art of War

T

 

t

 

 

 

 

 

 

Thống-Kê Vào Làng

Viet Nam 49.4% Viet Nam
United States of America 22.9% United States of America
Italy 10.5% Italy
Germany 8.5% Germany
Canada 2.6% Canada
Australia 1.4% Australia
France 1.0% France

Total:

68

Countries