Cô Gái Rơi Từ Trên Trời
Hồi Ký của Juliane Koepcke
Năm 17 tuổi, Juliane Koepcke đã bị rơi từ độ cao 10,000 thước Anh (hơn 3 cây số) xuống vùng rừng mưa nhiệt đới Amazone. Cô đã tường thuật cô được cứu sống như thế nào- duy nhất một mình.
Sinh tại Thủ đô Lima, Peru, năm 14, trước khi chuyển đến khu rừng Peru, nơi cha mẹ cô, Maria và Hans-Wilhelm Koepcke, xây dựng Trạm Nghiên Cứu Sinh Thái Penguana. Sau 2 năm theo cha mẹ tới khu rừng trong những chuyến nghiên cứu, Juliane trở về Lima hoàn tất trung học.
Ngày 24 tháng 12, 1971 Juliane, 17 tuổi, và mẹ cô đáp máy bay tại Lima đi Pucallpa, thành phố có phi trường gần nhất tới Panguana, để viếng thăm cha cô nhân dịp Lễ Giáng Sinh. Đây là lời kể của cô:
Những chuỗi ngày của tôi ở Lima thật tuyệt vời. Măc dù đã có nhiều kinh nghiệm về rừng, tôi vẫn là một nữ sinh. Tôi đi nghỉ mát ở Panguana và đi học với các bạn cùng lớp ở Lima.
Mẹ tôi muốn bay tới Pucallpa sớm hơn, nhưng lớp múa ở nhà trường và lễ tốt nghiệp trung học của tôi lại tuần tự vào ngày 22 và 23 tháng 12. Tôi xin Mẹ cho tham dự.
-Thôi được. Mẹ nói. Chúng ta sẽ bay vào ngày 24 vậy.
Vào buổi sáng ngay trước Giáng Sinh, khi chúng tôi tới, phi trường chật ních người. Nhiều chuyến bay đã bị hủy bỏ ngày hôm trước, và hiện giờ có hàng trăm người chen chúc nhau ở những quầy vé.
Vào khoảng 11 giờ trưa, chúng tôi tập họp lên máy bay. Mẹ và tôi ngồi hàng áp chót trong một băng ghế ba chỗ. Tôi ngồi bên cạnh cửa sổ như thường lệ; mẹ ngồi bên cạnh tôi; một người đàn ông có bộ tịch nặng nề ngồi ở ghế ngoài cùng. Mẹ không thích đi bằng máy bay. Bà là nhà nhà khoa học nghiên cứu chim muông, thường nói là con chim bằng sắt bay trên trời là điều mấy không tự nhiên.
Nửa giờ đầu của chuyến bay nhiều giờ từ Lima đến Pucallpa không có gì trở ngại. Bữa điểm tâm chúng tôi được dọn món bánh mì sandwich và nước uống. Mười phút sau, trong lúc các tiếp viên phi hành bắt đầu lo dọn dẹp, chúng tôi bay vào vùng bão tố mạnh.
Bất ngờ, ánh sáng ban ngày trở thành ban đêm và có những ánh chớp từ mọi phía. Mọi người kinh ngạc khi máy bay lắc đảo dữ dội. Các túi xách, các món quà đã gói sẵn, quần áo từ những ngăn trên đầu rơi xuống. Các khay bánh mì bay tán loạn trong không khí, và những cái ly mới uống phân nửa rơi lên đầu hành khách. Mọi người la khóc.
Mẹ lo lắng, nói:
-Hy vọng rồi sẽ ổn thôi.
Tôi nhìn thấy tia sáng trắng lóe trên cánh phải máy bay. Tôi không biết đó là tia chớp hay là tiếng nổ. Tôi mất tất cả ý niệm về thời gian. Máy bay bắt đầu đâm nhào xuống. Từ chỗ ngồi phía sau, tôi có thể nhìn xuống từ lối đi trên máy bay cho tới khoang phi công.
Tai, đầu và khắp cơ thể của tôi tràn ngập tiếng gầm rú của máy bay. Trên hết mọi thứ, tôi nghe tiếng mẹ bình tĩnh nói:
-Bây giờ thì xong đời.
Chúng tôi rơi xuống thật nhanh. Mọi người la ó và tiếng ầm vang của động cơ máy bay bỗng nhiên tắt ngấm. Mẹ không còn ngồi bên cạnh tôi. Và tôi cũng không còn ngồi trong máy bay nữa. Tôi vẫn còn bị mắc kẹt trong ghế ở cao độ 10 ngàn thước Anh (hơn 3 cây số). Một mình tôi. Tôi đang rơi.
Cú rơi thật yên lặng. Tôi không thấy gì chung quanh. Dây lưng an toàn xiết chặt vào bụng tôi khiến không thở được. Tôi bất tỉnh trước khi cảm thấy kinh hoàng.
Khi tỉnh lại, tôi vẫn tiếp tục rơi dốc ngược. khu rừng nhiệt đới Peru quay chầm chậm về phía tôi. Những chóp cây dầy đặc nhắc tôi liên tưởng đến cây bông cải broccoli. Tôi nhìn thấy mọi thứ như nhìn qua lớp sương mù trước khi lại bất tỉnh lần nữa.
Khi tỉnh lại, tôi thấy tôi rơi xuống giữa một khu rừng. Dây lưng an toàn đã bung ra, vì vậy chắc hẳn tôi đã tỉnh dậy ở một chỗ nào đó. Tôi bò sâu tới chỗ băng ghế 3 chỗ ngồi đã buộc chặt tôi khi tôi từ trên trời rơi xuống. Ẩm ướt và bùn lầy, tôi nằm đó cho tới ngày hôm sau.
■
Khi mở mắt vào sáng hôm sau, tôi sẽ không bao giờ quên được hình ảnh mình trông thấy: những tàng cây rậm rạp trên đầu tôi tràn ngập ánh sáng vàng óng, đang tắm mọi vật trong làn ánh sáng mầu xanh lá cây. Tôi cảm thấy bị bỏ quên, vô vọng và hoàn toàn cô độc. Ghế của mẹ tôi trống rỗng.
Tôi không thể đứng dậy. Tôi nghe tiếng gõ nhẹ nhàng của chiếc đồng hồ đeo tay nhưng không sao xem giờ được.
Tôi không thể nhìn thẳng. Tôi nhận ra rằng mắt trái bị sưng, không mở được; tôi chỉ có thể nhìn qua khe hẹp của mắt phải. Cặp kiềng của tôi biến mất, nhưng cuối cùng tôi đã tìm ra cách xem giờ.
9 giờ sáng, tôi lại cảm thấy chóng mặt và mệt mỏi nằm trong khu rừng.
Một lát sau, tôi cố gắng đứng bằng đầu gối, nhưng cảm thấy quá chóng mặt đành phải nằm ngay xuống .
Tôi cố gắng lần nữa và bỗng nhiên có thể tự giữ mình ở vị trí đó. Tôi rờ xương cổ, hoàn toàn bị gẫy. Tôi thấy một vết cắt sâu ở cẳng chân trái, như thể là nó đã bị cắt bằng một mảnh kim khí thô nhám. Lạ thay, nó lại không chẩy máu.
■
Đối với ai chưa từng ở trong rừng rậm, đó có thể là nỗi kinh hoàng. Những cây cối khổng lồ tỏa những bóng bí mật. Nước luôn róc rách chẩy. Rừng rậm thường có mùi ẩm mốc từ cây cỏ mọc quấn quít nhau, ánh sáng và mục rữa.
Các loại côn trùng cai quản khu rừng, và tôi phải đối đầu với mọi loại: kiến, bọ cánh cứng, bướm, châu chấu, muỗi. Một loại có cánh nào đó đẻ trứng dưới da hay dưới vết thương. Loại ong hoang không vòi chích thích bám vào tóc người.
Thật là may mắn, khi còn nhỏ tôi đã sống trong rừng đủ lâu để quen thuộc với sâu bọ và những sinh vật khác bay lung tung, trườn bò, huýt sáo hay gầm gừ. Hầu như không có gì thuộc về rừng mà cha mẹ tôi không dậy. Tôi chỉ tìm thấy những kiến thức này trong đầu óc lờ mờ bị chấn thương của tôi.
Bỗng nhiên, tôi bị cơn khát dữ dội chụp lấy. Tôi liếm những giọt nước dầy lóng lánh trên lá cây chung quanh. Tôi đi trong những vòng tròn nhỏ quanh chỗ ngồi, đề phòng có thể mất phương hướng nhanh chóng trong rừng. Tôi cố ghi nhớ vị trí và những dấu hiệu trên cây để xác định phương hướng của mình.
Tôi không tìm ra vết máy bay lâm nạn. Không thấy mảnh vỡ. Không thấy người. Nhưng tôi phát hiện được một túi kẹo, và lột ra ăn một cục.
Tôi nghe tiếng động cơ máy bay ù ù trên đầu. Tôi nhìn lên, nhưng cây cối dầy đặc: Không có cách nào để người ta có thể chú ý đến tôi. Một cảm tưởng bất lực xâm chiếm lấy tôi. Tôi phải thoát khỏi khu rừng rậm rạp này mới mong toán cấp cứu có thể nhìn thấy tôi.
Lát sau, tiếng động cơ tan đi.
Tôi nghe tiếng nước chẩy róc rách, rả rích mà trước đây tôi không chú ý. Gần đấy tôi thấy có một dòng suối chẩy vào một con lạch nhỏ. Điều này làm tôi tràn đầy hy vọng. Không những tôi tìm được nước để uống, mà còn tin rằng dòng suối nhỏ này sẽ dẫn đường tôi được cứu hộ.
Tôi từ từ đi theo con lạch nhỏ, nhưng có nhiều thân cây nằm chắn ngang hoặc những táng đá bên dưới chặn đường. Từng chút một, con lạch nhỏ trở nên lớn hơn và biến thành một dòng suối. một phần khô ráo khiến tôi có thể đi theo mé nước một cách dễ dàng. Khoảng 6 giờ, trời tối. Tôi tìm một chỗ nằm an toàn quanh dòng suốt để ngủ qua đêm. Tôi ăn thêm một cục kẹo nữa.
■
Ngày 28 tháng 12, chiếc đồng hồ, quà tặng của bà ngoại, ngưng chạy vĩnh viễn., vì vậy tôi phải cố gắng tính ngày khi đi. Dòng suối trở thành con suối lớn hơn, rồi cuối cùng là một con sông nhỏ.Vì đang là mùa mưa, có rất ít trái cây. Tôi liếm láp cục kẹo cuối cùng. Tôi không có dao để chặt dừa nước. Tôi cũng không thể bắt cá hay nấu rễ cây. Tôi không dám ăn bất cứ thứ gì. Nhiều thứ mọc trong rừng đều độc hại, vì vậy tôi không dám rờ tay vào những thứ tôi không nhận ra. Nhưng tôi lại uống rất nhiều nước suối.
Mặc dù có đếm, tôi vẫn bị lộn ngày. Ngày 29 và 30 tháng 12, ngày thứ năm hay thứ sáu của chuyến hành trình, tôi nghe có tiếng ù ù, lập tức vẻ mặt chán nản của tôi biến đổi thành lòng háo hức. Tiếng kêu rõ ràng của loài chim hoatzin, một loại chim bán nhiêt đới thường làm tổ gần những ngòi nước – nơi người ta sinh sống. Ở Panguana, tôi thường nghe thấy tiếng kêu này.
Với động lực thúc đẩy này, tôi đi nhanh hơn theo tiếng gọi. Sau cùng, tôi đứng trên bờ môt cửa sông rộng, nhưng không có một người nào cả. Tôi nghe tiếng máy bay từ đằng xa, nhưng thời khắc qua đi, tiếng động rồi lại tàn lụn. Tôi tin là người ta đã chịu thua, cấp cứu mọi hành khách khác, ngoại trừ tôi.
Lòng giận dữ xâm chiếm tôi. Các phi công làm sao có thể bỏ lại tôi sau cùng đã đến cửa sông sau những ngày này? Ngay sau đó, lòng giận dữ của tôi nhường chỗ cho nỗi tuyệt vọng. Nhưng không chịu đầu hàng. Con người không thể sống xa nơi có sông ngòi.
Cây cối bên bờ sông mọc quá rậm rạp khiến tôi đi không được.Tôi biết những con cá đuối có gai độc nằm ở bờ sông, vì thế tôi đi cẩn thận. Tiến độ chậm chạp khiến tôi quyết định bơi ra giữa con sông. Cá đuối gai độc không sống ở chỗ nước sâu. Tôi phải coi chừng loài cá răng đao, nhưng tôi được học là loài cá này chỉ nguy hiểm ở những chỗ nước đứng. Tôi cũng đề phòng đụng phải loại cá sấu, loại vật bò sát như cá sấu, nhưng chúng thường không tấn công người ta.
Mổi đêm khi mặt trời xuống, tôi đều tìm chỗ tương đối an toàn bên cạnh bờ sông để ngủ. Muỗi và những côn trùng có cánh nhỏ như muỗi mắt bay quanh đầu, bò vào cả tai và mũi tôi. Tệ hại hơn cả là những đêm mưa. Những giọt mưa lạnh buốt như nước đá trút xuống, làm ướt bô đồ mùa hè mỏng manh của tôi. Gió làm tôi lạnh cóng xương. Vào những đêm âm u như thế, khi tôi nằm co ro dưới gốc hay trong bụi cây, tôi cảm thấy hoàn toàn bị bỏ rơi.
Ban ngày, tôi bơi lội nhưng trở nên yếu hơn. Tôi uống rất nhiều nước sông cho đầy bụng, nhưng tôi biết tôi cần phải ăn cái gì đó.
Một buổi sáng tôi cảm thấy đau dữ dội ở trên lưng. Khi tôi rờ nó, bàn tay đụng phải máu. Mặt trời làm cháy da khi tôi bơi. Sau này tôi biết tôi bị phỏng mức độ 2.
Ngày tháng trôi qua, tôi thường bị mắt và tai đánh lừa. Tôi thường trông thấy một mái nhà bên bờ sông hay nghe tiếng gà kêu. Tôi mệt mỏi khủng khiếp.
Tôi tưởng tượng tới các món ăn, từ những món thịt tươm tất đến những đồ ăn giản dị. Mỗi sáng tôi càng khó đứng dậy và xuống nước lạnh. Có nghĩa gì không nếu cứ tiếp tục? Có chứ. Tôi nói với tôi. Tôi phải tiếp tục.
Tôi trải qua ngày thứ mười trôi giạt trong nước. Tôi liên tiếp vấp phải những khúc cây, cần phải có sức mới trèo qua được và không bị gẫy xương trong những lần va chạm. Buổi chiều tối, tôi thấy một bờ sông lát sỏi có vẻ như là chỗ ngủ tốt. Tôi lăn quay ra ngủ ít phút. Khi thức giấc, tôi nhận thấy có cái gì không thuộc nơi này: một cái ghe. Tôi dụi mắt, nhìn 3 lần, và nó vẫn còn đó. Một cái ghe!
Tôi bơi tới bám lấy nó. Lúc đó tôi mới thực sự tin là có thật. Tôi thấy một con đường nhỏ từ phía căn chòi dẫn tới bờ sông. Tôi quả quyết có người ở đó, nhưng tôi yếu quá, phải mất hàng giờ mới leo lên được đỉnh đồi.
Khi lên đến đỉnh, tôi thấy một căn chòi nhỏ, nhưng không có ai cả. Có một lối đi dẫn từ cái chòi tới khu rừng. Tôi chắc chủ chiếc ghe sẽ xuất hiện, nhưng rồi không có ai đến. Trời tối. Tôi ngủ đêm ở đó.
Sáng hôm sau, tôi thức giấc, và vẫn không có ai. Trời bắt đầu mưa. Tôi bò vào trong chòi, cuốn một tấm vải dầu quanh vai. Buổi trưa trời tạnh mưa. Tôi không còn sức đứng bằng đôi chân. Tôi cảm thấy tôi phải nghỉ ngơi trong chòi một ngày nữa, rồi mới tiếp tục được.
Lúc trời chạng vạng, tôi nghe có tiếng nói. Tôi nghĩ là tôi đang tưởng tượng. Nhưng tiếng nói càng lúc càng gần hơn. Khi ba người từ trong rừng bước ra, thấy tôi, họ dừng lại kinh ngạc.
Tôi nói tiếng Tây Ban Nha:
-Tôi chính là cô gái trong vụ rớt máy bay LANSA đây. Tên tôi là Juliane.
■
Các nhân viên Thủy Lâm đã tìm thấy Juliane Koepcke ngày 3 tháng giêng, 1972, sau 11 ngày còn sống trong rừng, và chuyển đến nơi an toàn. Cả thẩy 91 người, cả mẹ Juliane, đều tử nạn trong vụ rơi máy bay LANSA, chuyến bay số 508. Juliane là người sống sót duy nhất. Hiện bà là nhà sinh vật học và quản thủ thư viện tại Viện Sưu Tầm Động Vật Học Tiểu Bang Bavaria. Juliane thường trở lại trạm nghiên cứu bà kế thừa tại Panguana, tiếp tục chào đón các khoa học gia trên khắp thế giới.
Juliane Koepcke
Hà Việt Hùngchuyển ngữ
từ The Girl Who Fell From The Sky
(Reader’s Digest số tháng 7/2013)