"Làm trai sinh ở trên đời, nên giúp nạn lớn, lập công to, để tiếng thơm muôn đời, chứ sao chịu bo bo làm đầy-tớ người!" ** Lê Lợi **

Ðêm Rằm Trung Thu

Thân ái tặng các cháu Thiếu Nhi Việt Nam - Nhà Văn Bút Xuân Trần Đình Ngọc

   Thế giới trong tuổi thơ của tôi là thế giới đầy mầu sắc. Vạt nắng vàng hoe ở hiên nhà, nhũng cụm mây trắng lơ lửng trên bầu trời xanh; tàn lá cây bàng cổ thụ ở ngay bến sông đổi từ mầu xanh biếc sang mầu vàng, rồi mầu đỏ; những chùm hoa soan tím nhạt ngát hương thơm vào tháng ba âm lịch; biển lúa vàng lả ngọn như những làn sóng đại dương vàng rực mỗi cơn gió... Những mầu sắc ấy, hơn cả thanh âm, đã sớm ghi khắc sâu đậm vào ký ức tôi khiến năm, tháng không thể làm phai nhòa.
    Nhưng những mầu sắc ấy tự thân có vẻ lạnh lùng, “tĩnh vật”, nó thiếu cái hồn tự tại, khi nhớ lại không làm tôi say mê, thích thú và giao hòa đồng điệu như những mầu sắc của Trung thu.
Vâng, Trung thu. Tết Trung thu. Tôi muốn bạn cùng sống với tôi những kỷ niệm về Trung thu thuở mới vào đời, thuở nhìn thế giới xung quanh toàn lạ lẫm, đặc thù và nghĩ rằng rất khó có thể hòa nhập được với thế giói đó.
    Thế giới Trung thu ở nước ta xưa, khi tôi mới có trí khôn lúc bốn, năm tuổi rồi lên sáu, lên bảy cho đến chín mười tuổi là thế giới đầy mầu sắc, linh động và cuốn hút mà cái thế giới của nắng, gió, lá bàng, áng mây, hoa soan vv...như nói ở trên không thể nào bì kịp.
    Không ai có thể nhớ rõ năm lên mấy thì mình có đủ trí khôn. Tôi nhớ tôi còn bé lắm, chẳng biết đã có đủ trí khôn chưa, nhưng khởi đầu là một cái Tết Trung thu náo nhiệt, vui nhộn, hạnh phúc và nhất là đầy mầu sắc linh hoạt.
    Bữa đó, cơm tối xong, thầy tôi bảo mẹ thay quần áo cho hai chị em tôi. Chị Thảo, chị kế với tôi, hơn tôi bốn, năm tuổi gì đó, lúc đó đang học tiểu học. Thầy mẹ và hai chị em tôi ra đón xe điện lên Bờ hồ, tức là hồ Hoàn Kiếm Hà nội. Ai đã đi xe điện ở Hà nội đều biết, nó chạy chậm, chỉ khoảng 15 - 20km/giờ hoặc hơn chút đỉnh nhưng vì từ phố Huế, nơi gia đình tôi trú ngụ lên Bờ hồ, đường chẳng xa bao nhiêu. Vả lại, phương tiện xe điện ở Hà nội lúc đó là phương tiện duy nhất cho mọi người, nhất là giới bình dân. Thày phán Lộc, người yêu rồi người chồng của cô Mai trong “Nửa chừng xuân” của nhà văn Khái Hưng “tối rượu xâm- banh, sáng sữa bò”, làm việc ở Phủ Toàn quyền của người Pháp, dùng xe điện đi làm. Cô bán hoa xinh đẹp, dễ thương, cô Liên, trong “Gánh hàng hoa”, tần tảo nuôi chồng là anh Minh bị hư mắt, cũng dùng xe điện đưa hoa lên chợ Ðồng Xuân. Tác giả “Giấc mộng lớn” Giấc mộng con”, thi hào Tản Ðà, dù say khướt cũng phải dùng xe điện về nhà trọ. Ðến anh Chí Phèo nghèo rớt mồng tơi, được lúc có vài xu trong túi, muốn đưa người yêu là Thị Nở lên Bờ hồ ngắm cảnh sinh tình cũng phải dùng xe điện.
    Xe buýt, xe taxi, xích lô đạp chưa có. Dân Pháp thuộc địa mới có xe hơi, những chiếc Citroen cổ lỗ và mãi sau này mới có Peugeot 203. Ông Nghị Hách, nhân vật chính trong “Giông tố”, Nghị viên Bắc kỳ, đồn điền dăm, bảy cái, vợ cả chục cô, mới có xe hơi đi, gọi là xe ô-tô hòm (automobile). Và cũng bởi ông có ô-tô nên thị Mịch mới làm vợ ông sau này.
    Hàng bang tá, thông phán khá giả do lương của Pháp phát mới tậu được chiếc xe tay, còn gọi xe kéo (pousse-pousse), người phu xe cầm hai cái càng kéo đi, người đi xe ngồi phía sau, có mui như xe xích lô đạp sau này. Có xe kéo, lại phải nuôi một phu xe trong nhà giống như người tài xế. Chủ không đi đâu thì lau chùi, đánh bóng; chủ ngồi lên xe thì kéo đi. Từ sau 1945, loại xe này biến mất dần vì người ta quan niệm hình ảnh người phu kéo xe không đẹp, hình ảnh dân nô lệ. Từ đó, xe xích lô đạp ra đời, coi đã văn minh tiến bộ hơn.
    Hà nội giữa tháng 8 âm lịch vẫn còn nóng. Cả thành phố chưa có máy lạnh nhưng đã có nhiều quạt điện. Các công sở từ Bưu điện, tòa Ðốc lý đến các Sở Thuế vụ, các cửa hàng bách hóa như Magasin Brodard, các cửa hàng thực phẩm dành cho dân Pháp và nhà giầu tương tự như Thái Thạch Alimentation Générale sau này ở Sàigòn... đều mắc quạt trần hoặc quạt bàn có chân đứng cao. Nền đá hoa hay đá cẩm thạch những cửa hàng sang trọng này bóng loáng, không một hạt bụi. Còn những nhà tư nhân, có được một cái quạt để bàn để giải quyết những cơn nóng mùa hè đã là sang.
    Mẹ mặc cho tôi chiếc quần ngắn xanh nhạt có dây “bretelles” đeo lên vai thay vì thắt lưng, áo sơ-mi trắng ngắn tay, chân dận đôi săng - đan mầu gụ. Mẹ và chị tôi mặc quần dài đen, áo cánh trắng thông thường. Còn thầy tôi, thay vì mặc sơ-mi quần tây như nhiều người Việt thời đó, thầy tôi vẫn đánh chiếc quần trắng và chiếc áo dài trắng, đầu để trần, chân dận dép da vàng nhạt. Mùa Ðông, ông mặc áo the đen, quần trắng, đội khăn xếp chữ nhân, chân dận dép da đen. Trời lạnh nhiều, ông có cái ba-đờ-suy bằng dạ đen phủ quá đầu gối.
    Xe điện ngưng ngay tại Bờ Hồ. Thầy mẹ và chị em tôi xuống, ven theo bờ hồ đi về phía hàng Ðào. Ðèn thành phố vừa đồng loạt bật. Ðền Ngọc Sơn thấp thoáng có người ra vào. Nếu tản bộ trên cầu Thê Húc đi thẳng vào đền ta sẽ thấy cảnh khói hương nghi ngút và những thiện nam tín nữ đang tâm thành khấn vái hoặc cầu may. Những cây liễu lá xanh như ngọc thạch rủ bóng soi mình trên mặt nước như những thiếu nữ vừa gội đầu đứng hong tóc. Tháp Rùa nhỏ, thấp, đứng trơ vơ giữa hồ như một chứng nhân cho các triều đại hưng phế. Hồ Hoàn Kiếm lúc đó với tôi, rất lớn, chứ không có vẻ nhỏ như sau này khi tôi đã khôn lớn.
    Ngay từ đầu hàng Ðào - con phố được nhắc nhở nhiều nhất trong ba mươi sáu phố phường Hà Nội - quang cảnh tấp nập, ồn ào và vui mắt. Còn mười ngày nữa mới Tết Trung Thu mà người đi sắm quà Trung Thu đông nườm nượp. Mỗi gia đình là một nhóm nhỏ: cha mẹ, con cái, những đứa trẻ mới biết đi nhanh cho đến những thiếu niên nam nữ 15, 17, 18; những đứa trẻ còn đang bế ngửa cũng dự cuộc vui với những ông cụ, bà cụ lưng đã khòm phải chống gậy. Người ta ngốt lên vì những cửa tiệm sáng quá, sang trọng quá và chứa đầy những thứ người ta ước mơ.
    Ðây là cửa tiệm bánh Trung Thu Hằng Nga. Từ ngoài nhìn vào, ngay bức tường chính giữa, một bức tranh Tàu thật lớn choán suốt bề ngang, bề đứng trên ba thước tây, khung gỗ thật đẹp, xung quanh gắn bóng đèn nhỏ nhấp nháy.
    Tranh do hoạ sĩ Tàu vẽ bằng mực Tàu và mầu nước. Ðó là bức “Dương Quí Phi vọng nguyệt”. Nàng Dương quí Phi mặt đẹp như hoa, da trắng như bông bưởi, lông mày lá liễu, mắt sắc như dao cau, tóc mây bới cao, hai bên tóc mai dài nhọn hoắt, đang đứng chỉ trỏ, ngắm trăng. Từ xa, mặt trăng tròn vành vạnh sáng quắc ở trên bầu trời xanh điểm vài vì sao thật xa. Phía dưới là rừng cây xanh thẫm làm nổi bật mặt trăng và bầu trời.
    Ðứng sau Dưong Quí Phi, cũng đang ngắm trăng là Ðường Minh Hoàng, râu ba chòm, đường bệ, vương giả. Hai thể nữ nhỏ nhắn, xinh xắn đứng hầu phía sau, cách khoảng mấy thước. Lầu vọng nguyệt, nơi Dương Quí Phi và Ðường Minh Hoàng đang đứng, hình tròn, khá cao, tất cả đều bằng gỗ, các mặt đều chạm trổ hoa văn đẽo gọt rất công phu từ tay những thợ khéo nhất của Trung quốc. Từ khi say mê Dương Quí Phi, Ðường Minh Hoàng ra lệnh xây dựng lầu này dành cho người đẹp và nhà vua mỗi đêm rằm lên đó thưởng trăng, uống rượu. Trong sử sách, còn có một đoàn sênh phách, đàn hát giúp vui nhưng không đủ chỗ cho họa sĩ vẽ vào.
    Những đứa trẻ ngây thơ như tôi lúc đó cứ say mê ngắm bức tranh, đêm về ngủ còn mơ thấy mặt trăng lồng lộng và những khuôn mặt khả ái trên bức tranh. Nhưng chẳng riêng tụi trẻ mà các ông già, bà già đều đứng trầm trồ vì bức tranh rất đẹp, rất có hồn.
    Thầy tôi đứng đọc mấy hàng Hán tự viết thảo, nét chữ vô cùng bay bướm mà thầy nói là thơ của Thi hào Lý Bạch. Có lẽ tôi còn quá nhỏ để thầy tôi nói cho nghe nhưng khi mẹ đến đứng cạnh, thầy đã chỉ trỏ và giải thích mấy câu thơ này. Mãi khi lớn, đọc thơ Ðường, tôi đoán có lẽ họa sĩ đã viết mấy câu thơ Lý Bạch tán tụng nhan sắc của Dương Quí phi, trong có câu:
      “Vân tưởng y thường, hoa tưởng dung”
    Xin tạm dịch ra thơ là:
      Áo em, một áng mây trời Nhìn hoa, anh lại bồi hồi dáng em!(tđn)
    Trở lại với tiệm bánh, ba mặt tủ kính để các thứ bánh dẻo, bánh nướng, để trần cho khách coi với hàng chữ nhỏ nêu tên và giá tiền: bánh dẻo vi cá, bánh dẻo hạt sen, bánh nướng một trứng, hai trứng, lạp sưởng hạt dưa vv... Có thứ để sẵn trong hộp in nhãn hiệu của tiệm, cột nơ sẵn sàng để đem biếu. Ngay giữa tiệm, một cái bàn hình chữ nhật thật lớn trên có một đống bột trắng đang trộn để làm bánh. Năm, sáu người đàn ông mặc “tạp-dề” trắng, tay áo xắn cao, người cầm khuôn, kẻ cầm thanh lăn để cán bột, kẻ đang đúc bánh, bỏ nhân, gạt bột, đôi tay người nào cũng thoăn thoắt và thiện nghệ chứng tỏ họ đã lâu năm trong nghề. Mùi va-ni và mùi đường thắng thơm ngào ngạt, kích thích mãnh liệt khứu giác bọn trẻ chúng tôi, thầm nghĩ có thể ăn cả mấy hộp bánh cũng chưa chán. Người mua đứng vòng trong vòng ngoài. Phía này, giọng một bà cụ: ”Chú cho tôi hai cân bánh dẻo vi cá hạt dưa.”, phía kia: ” Ba cân bánh nướng hai trứng của tôi sao lâu thế!” Cả chục người chờ, cả chục người cùng muốn lấy bánh, trả tiền và ra về sớm vì người nhà đang đợi ở bên ngoài.
    Chủ tiệm cố ý khoa trương các loại bánh mà họ để trên bảng quảng cáo là ngon nhất Hà nội từ sự nồng nhiệt chiếu cố của khách hàng nên đã đặt hỏa lò ngay trước cửa để sao bột. Một cái chảo gang lớn, thứ ít khi nhìn thấy, trong đầy một chảo bột trắng tinh, đang được hai người dùng hai cây đũa lớn như hai cái “dầm” nhỏ dùng để chèo thuyền thay tay nhau đảo. Khi bột chín, họ đưa vào bàn cho những bàn tay khác khuôn bánh, nặn bánh, bỏ hộp, dán nhãn vv...
    Bánh nướng không thể xây lò ở ngoài đường được thì họ quảng cáo bằng cách đưa những khay bánh nóng hổi vừa ra lò ra bàn, hai ba cô con gái lựa lựa, xếp xếp, bỏ hộp, dán nhãn...Một cô gái nói đi nói lại:”Bánh nướng thật thơm ngon vừa ra lò. Mua nhanh kẻo hết!” Bánh của họ chẳng bao giờ hết, nhưng những lời rao có đủ sức hấp dẫn làm những đồng bạc nằm lặn sâu trong “ruột tượng”, trong nhiều lần giấy báo gói của các cụ già nhảy vào ngăn kéo tiền của chủ tiệm bánh. Mấy anh thợ bánh còn diễu rất hay:”Phải đấy bà ngoại, phải đấy ông nội, mua vài cân bánh này ăn đi kẻo ít nữa răng rụng nhai không nổi, ngồi mà tiêc hùi hụi.”
    Cứ thế mà cân, trao, thu tiền...lúc đó tôi nghĩ có lẽ tiệm bánh bán suốt đêm không ngủ. Thầy tôi mua một hộp bánh dẻo và một hộp bánh nướng, xong dẫn mẹ con tôi đi coi những hàng quán khác. Chỉ đi dăm sáu phố, tôi đã thấy có đến ba tiệm bánh Trung Thu nhưng tiệm Hằng Nga là tiệm lớn nhất. Thầy tôi dẫn chúng tôi đến một tiệm bán dồ chơi cho trẻ em ở cuối hàng Ngang. Ðây mới chính là nơi tôi thích.
    Tủ kính để giữa tiệm không lớn lắm, thấp chỉ ngang đầu đứa trẻ, nhìn ngang, nhìn trên xuống đều được, trong để các con “giống” - danh từ lúc đó - như gà, vịt, chim bồ câu, chó, mèo, lợn, thỏ, trâu, bò và cả hổ, báo, gấu, voi vv....Các con giống này được nặn bằng bột, sau đó nhuộm mầu, điểm mắt, điểm lông bằng mực đen hoặc đỏ, xanh da trời, xanh lá cây vv...cho nổi. Loại nhỏ mỗi con chỉ bằng ngón tay cái. Một bộ - theo người bán - là mười hai con giống, được bỏ trong một cái hộp giấy để các cô, các cậu mang về nhà khỏi sợ vỡ. Loại lớn gấp ba, tất nhiên đắt nhưng đẹp hơn nhiều. Tôi say mê đứng ngó các con giống nhưng chưa dám đòi mẹ hoặc thầy tôi mua cho. Một bộ để chữ không bán, lớn nhất, mỗi con to bằng hai nắm tay, chỉ để trưng bày làm kiểu, như trong một nông trại thu nhỏ. Có nhà mái ngói đỏ; có cây, xanh um tùm; có gà, vịt, dê, ngỗng... tung tăng trên bãi cỏ, chim bồ câu trong chuồng, trâu bò cùng bác nông phu ra đồng vv... Mẹ hỏi tôi thích bộ con giống nào? Tôi chỉ vào một bộ nhỏ có những con tôi ưng ý mặc dù chúng cùng đúc một khuôn và cùng một bàn tay điểm mắt, điểm lông. Nhưng mẹ nói:
“Con lựa bộ trung - có những con lớn hơn - mẹ mua cho và để hai chị em chơi chung.”
    Rời tiệm các con giống, chúng tôi ghé qua một cửa hàng khác ở phố hàng Thiếc. Sàn phẩm trong cửa hàng này có thể nói làm toàn bằng những mảnh thiếc cắt từ những thùng dầu lửa nhập cảng từ Pháp.
    Con thỏ có bốn bánh xe để trẻ em kéo, khi chiếc xe lăn bánh, hai tay thỏ tự động đánh hai dùi trống vào một cái trống kêu “bộp bộp”. Hai tai thỏ lớn, dài, vảnh lên, sơn mầu hồng, trong khi mình thỏ lại mầu vàng, xe mầu đỏ. Râu, lông, mắt, mũi, đuôi, chân thỏ vv... được dùng sơn đen điểm, chấm trông y thật. Cả mấy chục con thỏ được trưng bày nhưng mỗi con mỗi mầu, “design” mỗi kiểu làm những đứa trẻ như tôi nhìn con này, lại muốn con kia hay muốn cả hai, ba con vì con nào cũng đẹp. Rùa cũng thế, chân rùa có xe bốn bánh để trẻ em kéo đi chơi, trong bụng rùa kêu “leng keng” như ngạc ngựa. Rồi trâu, bò, ngựa, lợn, gà trống, gà mái, vịt, ngỗng...con nào cũng được đặt trên một cái xe bốn bánh có dây để kéo.
Chưa hết, ngay giữa tiệm, một cái chậu thiếc lớn đổ gần đầy nước, hai, ba cái ca-nô - cũng làm bằng thiếc - nhỏ bằng bàn tay, đang xình xịch, xình xịch chạy chung quanh chậu. Trong ca-nô, một ngọn đèn đốt bằng dầu lửa làm nóng nước trong lò thông ra ống, nước sôi đẩy nước ra làm ca-nô chạy như ca-nô thật. Ðó là một cái tầu thủy thu gọn làm trẻ em vô cùng thích thú. Tôi nói với thầy tôi:
    “Thầy mua cho con một cái ca-nô.”
    Thầy tôi hỏi lại:
    “Thế con có thích con gà, con thỏ không?”
    Tôi lắc đầu:
    “Con chỉ thích cái ca-nô.”
    Qua phố hàng Mã, nơi này mới chính là nơi sản xuất lồng đèn Trung Thu. Ðèn ngôi sao nhiều nhất, lớn nhỏ, dán giấy bóng kính xanh, trắng, đỏ, tím, vàng, trông rõ cây nến bên trong. Ðèn cá chép, đèn bán nguyệt, mặt nguyệt, đèn quả dưa, đèn kéo quân, đèn quả bầu, quả bí, đủ thứ hình thù làm trẻ em choáng mắt. Ðèn kéo quân trông có vẻ sang trọng hơn cả. Ðèn làm theo hình ngũ giác to, cao, bên trong ba cây nến soi rõ đoàn vinh qui bái tổ của ông Trạng nguyên với cờ xí, ngựa võng một đoàn cứ xoay tròn trong chiếc đèn nhìn mãi không chán mắt. Thầy tôi mua cho hai chị em tôi hai cái đèn ngôi sao, một cái xanh, một cái đỏ.
    Lúc đi tay không, lúc về, hai chị em tôi, mỗi người ôm một bọc đồ chơi, tay lủng lẳng cái đèn ngôi sao. Thầy tôi xách một gói, mẹ tôi một gói, người nào cũng tay xách nách mang nặng trĩu nhưng vui. Trước khi về, thầy tôi còn dẫn lại phố Cầu Gỗ, vào tiệm cà-phê Nhân để mẹ và chị em tôi ngồi nghỉ, ăn kem, uống nước. Ði liền mấy tiếng đồng hồ từ chập tối, ai nấy đã mỏi rã cẳng. Cốc kem chanh mát, ngọt và thơm làm tôi tỉnh người. Thầy tôi không ăn kem, ông gọi cà-phê phin. Ông thích cà-phê Nhân vì cà-phê Nhân lúc đó có lẽ là tiệm cà-phê ngon nhất Hà thành. Tuy nhiên, nếu ai không quen uống cà-phê buổi tối, uống nửa tách cà phê Nhân sẽ thức luôn đến sáng.
    Rời tiệm cà-phê, lúc đó đã 10 giờ rưỡi, không còn xe điện chạy. Thầy tôi gọi hai cái xe kéo, một cái cho mẹ và chị tôi, một cái cho thầy tôi và tôi. Hai cái xe nối đuôi chạy về phố Huế. Giờ đó mà người đi dạo phố còn khá đông. Tuy còn nhỏ nhưng tôi cũng thấy ái ngại cho ông già kéo xe. Ngày hôm sau, tôi có nói với thầy tôi cảm nghĩ của tôi khi thầy thuê xe kéo. Thầy tôi bảo:
    “Ðành vậy con ạ. Nhưng mình không làm cách gì giúp họ được. Dù sao lên xe đi, trả công cho họ, cũng là điều họ mong muốn, chả hơn nhiều người cuốc bộ để dành tiền ư?”
    Về đến nhà là 11 giờ, chị em tôi phải đi ngủ. Ngày hôm sau, chúng tôi nhặt từ con giống trong hộp ra, rất nương nhẹ vì sợ bể, đặt vào một cái khay lớn bằng gỗ dưới trải miếng nhung xanh, chuẩn bị cho cuộc thưởng trăng tuần sau.
    Múa sư tử - mà bây giờ gọi là múa lân - bắt đầu khoảng một tuần trước đêm rằm. Ðoàn múa đi khắp các cửa tiệm buôn bán ở mặt tiền để biểu diễn võ thuật và xin tiền. Có chủ nhân chịu cho tiền nhưng có chủ nhân bảo rằm hãy đến, sẽ thưởng nhiều tiền. Liền đó, ông bầu của đoàn phải ghi số nhà vào quyển sổ để trở lại đúng ngày chủ nhân muốn.
    Từng nhóm thanh niên, thanh nữ ăn mặc theo lối ”Sơn đông mãi võ”, dáng điệu nhanh nhẹn và tự tin chứng tỏ đã có luyện tập công phu. Ðầu quấn khăn đen, xanh hay vàng, hai giải khăn bỏ một bên tai, quần đen, áo đen, cửa tay áo và ống quần túm lại, giầy tàu, thắt lưng xanh, đỏ, đen hay vàng, người cầm gậy, kẻ cầm dao, cầm kiếm. Trên mặt họ được tô vẽ bằng mực đen cho đôi lông mày chổi xể hoặc có thêm râu quai nón cho đàn ông. Ðàn bà thì lông mày hình vòng cung, tóc mai dài thậm thượt xuống má, mặt trát phấn trắng phau, môi miệng đỏ chót, lại thêm đôi má hồng trông như những nàng Nhạc Linh San, Nhậm Doanh Doanh, cô gái Ðồ Long... bên cạnh những Lệnh Hồ Xung, Nhậm ngã Hành, Nhạc bất Quần, Vi tiểu Bảo... Khoảng mười mấy, hai chục người dàn ra hai bên đi chậm chậm, theo sau một lá cờ đen đuôi nheo, có hình đầu lâu trắng với hai cái xương vắt chéo trông rất rùng rợn. Khoảng giữa là cái đầu sư tử to như trống cái, râu ria lông lá xồm xoàm, hai mắt lồi hẳn ra ngoài, do một người đội lên. Mồm sư tử do bàn tay bên trong điều khiển mở ra đóng lại, đuôi sư tử là mảnh vài đỏ do hai người giữ trên đầu. Cuối cùng là một cái trống - có khi hai cái - có bánh xe lăn do hai thằng bé kéo, hai anh đánh trống mặc đồng phục đang ra sức trổ tài đánh rất có bài bản:”tùng tùng, cắc tùng tùng, cắc cắc tùng...” phụ họa bằng một đôi não bạt đã mẻ cạnh vì đánh nhiều quá do một ông già cũng mặc quần áo đen, túm ống quần, thắt lưng đen đi theo, làm không khí phố xá sôi lên sùng sục.
    Tục múa sư tử từ Tết Trung Thu, sau này lan qua Tết Nguyên Ðán với nhóm người đông hơn, biểu diễn võ thuật nhiều hơn và có khi hai đầu sư tử cùng múa chứ không phải một con. Dù vào dịp Tết nào, trẻ con người lớn cũng đón nhận các đám múa sư tử - hay múa lân - rất chân tình. Người đi theo xem nườm nượp, hết nhà này đến nhà khác, hết phố nọ sang phố kia, đông vui vì một năm chỉ có một lần. Các tiệm buôn, các thương gia thì tin đầu năm đám múa sư tử đến là mang phồn thịnh, phát đạt, tiền bạc, may mắn đến cho mình. Họ sẵn sàng bỏ ra một món tiền khá để tặng “chúa sơn lâm” và đoàn tùy tùng.
    Ðội múa sư tử đi từ chập tối đến nửa đêm. Có những gia chủ tính trốn “nợ”, đóng cửa tắt đèn làm mặt lì, đoàn sư tử lại lì hơn cứ đứng múa, trống phách đánh rầm rầm, gậy vụt xuống đất bình bịch, đao kiếm múa vèo vèo, chém nhau xoang xoảng, đám đông vì muốn coi cho rõ đã xiết mãi vòng tròn lại, bây giờ là lúc biểu diễn võ thuật, một hoặc hai, ba cặp chém nhau tới tấp, trông hoa cả mắt, họ múa đao, kiếm, gậy thật sát vào đám đông khiến ai nấy sợ chém phải mình, tự động lùi về phía sau. Cái vòng tròn vừa nãy bé tí nay lại nới rộng ra gấp ba, gấp bốn lúc trước. Những chủ nhà tính lì, sốt ruột và sợ mất mặt với lối xóm bà con đang đứng vòng trong vòng ngoài, cũng phải xì tiền ra. Có những chủ nhà cho ít quá, sư tử không chịu đi, kỳ phải cho thêm mới bảo nhau sang nhà khác. Nhiều chủ nhà chơi ác, đứng trên ban-công tầng hai, tầng ba, treo vào cây gậy, giơ giải thưởng ra. Thế là sư tử phải trèo thang, nếu không mang theo thang, cả đoàn phải công kênh nhau lên tới nơi, sư tử vừa trèo lên vừa múa, lên đến nơi còn chờn vờn đã vì người cầm giải cố ý làm khó cho vui, kỳ cho sư tử đớp được gói giấy hồng điểu trong có tiền thưởng mới tụt xuống anh nào chị nấy vã mồ hôi hột! Bọn trẻ chúng tôi vừa coi vừa nín thở chỉ sợ họ té.
    Những cuộc vui này làm trẻ con người lớn coi cứ mê đi, chen lấn hết sức mới có chỗ đứng tốt. Cả trăm người một đám, có khi cả vài trăm đến nỗi có cô gái bị cắt đứt mất cái ruột tượng lận tiền ở trong mà không biết. Sư tử ngậm được tiền, cả đoàn đi sang nhà khác, cô sờ đến ruột tượng mới hay kẻ gian rạch mất lúc nào. Còn đàn ông bị móc mất ví là chuyện rất thường.
    Ðêm rằm Trung Thu, mẹ tôi luộc một mớ ốc bươu để thầy tôi mời các bạn hữu đến ngồi ngoài vườn sau hoặc trên sân thượng, ngắm trăng, uống rượu, sáng tác thơ và ngâm thơ. Những con ốc vỏ vàng lườm, nhỏ hơn ốc nhồi nhưng thơm ngon hơn, mẹ tôi đã ngâm nước gạo ngày hôm trước cho chúng nhả những chất dơ ra, đem luôc với lá chanh, lúc ăn dùng gai chanh nhể mình ốc, chấm với nước mắm ớt gừng, các cụ đưa cay với đế, dăm hột đậu phọng rang, vài cái bánh đa nướng, tình bạn hữu đậm đà, thơ văn cả Hán cả Nôm tuôn ra vanh vách, vừa ngon miệng vừa hào hứng, thú vị vô cùng.
    Trời quang mây tạnh, trăng sáng vằng vặc, không khí mát rượi, thỉnh thoảng một cơn giớ nhẹ, dập dìu vài tiếng nhị, tiếng đàn cầm từ nhà hàng xóm. Tôi đã chơi các con giống ban ngày, bây giờ là lúc ra đường thưởng trăng với các bạn. Khắp phố, chỗ nào cũng đèn đèn, nến nến. Một cô bé đứng khóc rấm rức vì chiếc đèn ngôi sao cô cầm trên tay ngọn nến bỗng dưng ngả ra bén vào giấy, cô la lên thì cái đèn cháy đến tay nóng quá phải vứt đi.
    Năm nào ăn Trung Thư ở quê, tôi và lũ bạn nhỏ cũng dắt tay nhau ra bờ sông, con sông cỡ trung ngay phía trước vườn nhà, nhìn làn nước lăn tăn theo gió bập bềnh những con rắn bạc, vài chiếc đò xuôi, còn nghe một giọng ngâm đầy truyền cảm hai câu thơ của Hàn Mạc Tử, trong bài Ðây thôn Vĩ Dạ:
      Thuyền ai đậu nước sông trăng đó
      Có chở trăng về kịp tối nay?

    Bọn trẻ chúng tôi lúc đó chưa đủ sức để hiểu những câu thơ của người lớn nhưng chúng tôi có ca dao. Chúng tôi dắt tay nhau vừa đi vừa đọc:
      Ông giẳng ông giăng
      Xuống chơi với tôi
      Có bầu có bạn
      Có ván cơm xôi
      Có nồi cơm nếp
      Có đệp bánh chưng
      Có lưng hũ rượu
      Có chiếu đánh đu
      Thằng cu xí xoài
      Bắt trai bỏ giỏ
      Cái đỏ ẵm em
      Ði xem đánh cá
      Có rá vo gạo
      Có gáo múc nước
      Có lược chải đầu
      Có trâu cày ruộng
      Có muống thả ao
      Ông sao trên trời

   Ðọc đến đây, cả bọn ngồi bệt xuống, cười như nắc nẻ rồi lại đứng lên đi và đọc như trước cho tới khi mệt.
    Ðúng ngày rằm, chúng tôi cũng rước đèn đi quanh các thôn xóm, vừa đi vừa ca hát. Ở thôn quê, đèn không phải mua mà mỗi gia đình tự làm lấy đèn cho con em mình. Vài gióng tre tươi thật dẻo làm khung, giấy bóng kính mua ở chợ đem về dán lên. Muốn lớn chừng nào, muốn hình thù gì mà không được. Thùng thiếc hiếm thì mấy người khéo tay cắt những mảnh ván ra, sơn mầu; lại có thỏ, gà, vịt... ngồi trên xe đánh trống, gõ mõ y như của thợ Hà nội làm, có khi còn cầu kì và mĩ thuật hơn. Sau này, bắt chước các thành phố, làng chúng tôi cũng có múa sư tử ở sân đình cho dân làng coi. Ban ngày, người khắp nơi đến tỉ thí các môn quyền, cước, đấu roi, đấu kiếm, đô vật rất vui.
    Có những mảnh ruộng cấy lúa sớm, khoảng Trung Thu đã có lúa non, gặt về giã cốm xanh, ăn hoài no bụng mà miệng không chán. Khi hồng chín, những quả hồng đỏ mọng thơm ngon, người ta ăn cốm với hồng, món ăn thanh nhã, đậm đà hương vị quê hương, thường để biếu xén làm quà những đám hỏi.
Trăng lên đến đỉnh đầu, trăng soi vằng vặc rồi trăng chếch dần về phía Tây. Cuộc thơ rượu của người lớn đã tàn và đám trẻ đi rủ ông giẳng ông giăng xuống chơi cũng buồn ngủ, giải tán, ai về nhà nấy vì mắt đã díu lại.
    Trên nửa thế kỷ trôi qua nhưng những hình ảnh đầy mầu sắc sống động, lộng lẫy, huy hoàng những đêm Trung Thu thanh bình năm xưa (thời Pháp thuộc) vẫn còn in đậm trong cái trí nhớ chất chứa không biết bao nhiêu hình ảnh và kỉ niệm vui buồn của tôi.

Bút Xuân Trần Đình Ngọc
Little Saigon, CA mùa Trung Thu Giáp Thân (2004)

Thống-Kê Vào Làng

Viet Nam 49.4% Viet Nam
United States of America 22.9% United States of America
Italy 10.5% Italy
Germany 8.5% Germany
Canada 2.6% Canada
Australia 1.4% Australia
France 1.0% France

Total:

68

Countries