"Ta muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp làn sóng dữ, chém cá tràng-kình ở Biển Đông, quét sạch bờ-cõi để cứu dân ra khỏi nơi đắm-đuối chứ không thèm bắt chước người đời cúi đầu, cong lưng làm tỳ-thiếp cho người ta." ** Triệu Thị Trinh **

 

Nhớ Về Ông

 

" Mỗi năm hoa đào nở

Lại thấy ông đồ già

Bày mực tàu giấy đỏ

Bên phố đông người qua " ( Vũ Đình Liên )

   Ông nội tôi mất ở tuổi 85. Ngày ông ra đi trong sự khó khăn, bộn bề của đất nước cũng như sự nghèo khó của gia đình bác hai tôi - một nhà giáo đông con - Ông nằm xuống sau một năm nằm liệt và cả tháng mòn mỏi chờ 3 cha con tôi về. Trước mộ ông vừa chôn được 2 ngày, tất cả ai cũng buồn và mỗi người mang một tâm trạng riêng. Nhưng với tôi là làm sao đưa ông về cạnh mộ bà như lúc sinh thời ông  dặn.Theo lời ba tôi kể, lúc thiếu thời ông được cho xuống tỉnh thành ăn học. Ông cũng từng lều chõng vào Trương Thi Bình Định dự thi những khóa cuối cùng chữ Nho. Sau đó làm nghề thầy giáo. Tại đây ông  gặp bà, sống trong căn nhà khang trang ở phố thị.Ngoài ra ông cũng là ông đồ, khi tết đến, xuân về hay trong dịp lễ, ma chay, ai có nhu cầu ông đều viết giúp. Rồi trong cái buổi 

:" Cái học nhà nho đã hỏng rồi / Mười người đi học chín người chơi " ( Trần Kế Xương )

  Ông tôi thất nghiệp, phần lo các bác, cô, ba tôi ăn học nên phải bán căn nhà về quê sống. Từ đó, ông chuyển nghề thầy thuốc Bắc. Các con ông vì kinh tế quá  khó khăn nên cũng đi lập nghiệp nơi xa. Cuộc đời ông ở cái buổi gần tàn của chế độ phong kiến, chữ nho đã hết thời, nên đời sống vật chất thiếu thốn, cộng thêm chỗ ở không ổn định. Hai, ba lần cất nhà, không cái nào tồn tại lâu dài. Khi thì nhà xóm trên bị cháy, lúc xóm dưới bị lũ lụt cuốn trôi.

  Sỡ dĩ hai anh em được ông nuôi dưỡng từ nhỏ vì ba mẹ tôi đã chia xa, ông sống một mình cạnh trường Tiểu học, rất thuận lợi cho việc ăn học. Căn nhà nho nhỏ, lợp tranh, vách đất. Phía trước là con đường làng  dọc theo sông Côn có lũy tre xanh che bóng mát.  Phía sau là cánh đồng lúa, nhiều nhà của bà con và ngôi chùa thấp thoáng trên đồi. Cuộc sống anh em tôi quanh quẩn với miền quê sông nước, hồn nhiên ăn học, vui chơi. Vì  nghèo khó nên ông sống rất tiết kiệm. Thường thì có cơm, rau vườn, khô cá hay thay đổi vài món mắm. Mỗi tuần, tôi đi bộ vài cây số xuống thị trấn hốt thuốc ( theo toa ông cho ), nhân tiện mua vài thực phẩm tươi. Thi thoảng chúng tôi được bồi dưỡng thịt gà, vịt nuôi hay cá đồng khi theo mảnh ruộng lúc cày, bừa. Anh em tôi tự phân công làm việc nhà, nấu ăn, đi chợ, mót củi. Sống cùng ông, chúng tôi cảm thấy đầm ấm. Khi nào rảnh ông dạy cho vài chữ nho, học văn, câu nào không hiểu đều nhờ ông giải thích.

    Tưởng cuộc sống êm đềm của ông cháu tôi dài lâu, cho đến khi khôn lớn, trưởng thành. Nhưng chiến tranh, vùng quê tôi nhiều bất ổn. Thế là ba ông cháu tôi đành phải chia xa, mỗi người một nơi. Từ đây ông sống nhờ vào dòng tộc, không nơi nào ông ở ổn định, kể cả gia đình bác hai và ba tôi. Tôi biết ông rất tự trọng, nhiều tự ái. Anh em tôi cũng như ông, thay đổi chỗ ở liên tục khi đủ điều kiện ăn học.

    Sống cùng ông ở quê dù thời gian ngắn ngủi, nhưng tôi học nhiều bài học về nhân cách, đạo đức. Ông sống khiêm tốn, giản dị, tử tế với mọi người. Anh em tôi chưa một lần bị đánh đập hay chửi mắng. Nếu có sai phạm, ngỗ nghịch ông phân tích, khuyên bảo bằng những lời lẽ nhẹ nhàng nhưng thấm vào tim. Ông dạy cho tôi tinh thần tự giác, tự lập. Tôi học ở ông cách xư xử ở đời là làm nhiều việc tốt, lời hay, lẽ phải. Tất cả là hành trang, hoài bảo giúp tôi tự tin bước vào đời ngay cả những lúc túng bẩn, khổ cực, tuyệt vọng nhất.

   Đã gần 44 năm. Các gia đình anh em tôi, may mắn làm ăn ngày càng ổn định. Các con, cháu đều được ăn học tử tế. Tất cả đều đã trưởng thành, đều tột nghiệp Đại học hoặc cao hơn. Nhưng quan trọng là các cháu biết yêu thương, đùm bọc, dìu dắt nhau vào đời. Các cháu đều đã lập gia đình, ăn ở riêng và cuộc sống tương đối ấm no, hạnh phúc Nhìn lại quãng đường của ông và anh em mà chạnh lòng. Thành quả ấy, theo tôi là phúc đức của ông bà để lại.

    Thêm một mùa xuân nữa lại về. Cả gia đình chúng tôi, như thường lệ hàng năm cùng nhau về thăm mộ phần ông bà nội, ngoại. Thắp nén nhang thơm, hoa quả, lòng kính nhớ, ngậm ngùi nhớ lại bài thơ Ông Đồ của cụ Vũ Đình Liên: 

 " Năm nay đào lại nở 

Không thấy ông đồ xưa

Những người muôn năm cũ

Hồn ở đâu bây giờ? "

 

Minh Triết