"Con nhà tướng không được khiếp nhược trước quân thù." ** Bùi Thị Xuân **

 

Góc Tối

 

Thằng Trẻm chạy về phía bờ-sông, hy-vọng nơi đó vắng người, lính mã-tà ít khi ra tới. Một tay ôm-chặt thùng đồ-nghề đánh giầy, một tay kéo cạp chiếc quần rộng thùng-thình, nó vừa thở hổn-hển, vừa chạy bán sống bán chết. Bây-giờ, nó mới nghĩ đến hai chữ mã-tà. Hồi bà-nội nó còn sống, thỉnh-thoảng nó lại nghe tới hai chữ đó. Bà-nội nó giải-thích mã-tà là lính thời Pháp-thuộc, hung-dữ có tiếng. Vì vậy, từ khi bà-nội chết, thằng Trẻm quen miệng, gọi bất-cứ thứ lính nào làm việc cho chính-phủ đều là mã-tà tuốt-luốt. Ai chịu thì chịu.

Ngày hôm-qua con Sắt cho nó cái quần. Nó cười toét, rồi hí-hửng mặc vào. Cái quần quá rộng so với thân-xác ốm-nhom của thằng bé mười hai tuổi như nó. Kệ. Có mặc là tốt rồi. Đỡ tốn tiền mua. Nó cũng chẳng thèm hỏi con Sắt lượm được cái quần ở đâu. Sau khi có cái quần “mới”, nó vứt cái quần cũ hôi-hám đã rách bươm vào thùng-rác ở sau quán cà-phê Nhịp-Tim. Rồi nó cứ mặc cái quần rộng đó, cột bớt bụng bằng một sợi dây ni-lông, đeo theo cái thùng gỗ đựng đồ-nghề đánh giầy, ra vào khắp các quán trong thành-phố. Hôm nay bị đuổi bắt, cái quần rộng này lại là một trở-ngại. Lúc nó cần chạy nhanh, cái quần lại kéo rì về phía sau. Cũng may, nó không bị núm.

Gió từ dưới sông thổi lên mát-rượi, nhưng thằng Trẻm không để ý đến chuyện đó. Bấy giờ, quanh khu-vực quán cà-phê Nhịp-Tim trên đường Bạch-Đằng, lính mã-tà giăng lưới thật kín, tưởng một con chuột hay con mèo cũng khó lọt qua.Thành-phố đang có chiến-dịch truy-quét những người ăn xin, những tên lưu-manh, trộm-cướp, kể cả đĩ-điếm ra khỏi thành-phố. Họ gọi chung những người này là “tàn-dư”. Bốn mươi năm trôi qua, một thời-gian không thể cho là ngắn, vẫn không sao giải-quyết được cái “tàn-dư” này. Lạ thật.

Họ hô-hào, “hạ quyết-tâm” bắt không sót một người nghèo nào để làm đẹp và sạch-sẽ thành-phố. Những người nghèo, bao gồm những người ăn-xin, lưu-manh, trộm-cướp, đĩ-điếm…là những thành-phần “xấu” trong xã-hội, và đương-nhiên gồm cả những đứa trẻ đánh giầy, những người bán vé-số, những bà bán hàng-rong, những người lượm bao ni-lông… kiếm tiền một cách lương-thiện bằng mồ-hôi và nước mắt của mình.

Mấy năm gần đây, thành-phố đang cố “vươn-lên” thành trung-tâm du-lịch quốc-tế. Nó được đánh-giá là thành-phố lớn thứ năm trong cả nước về mật-độ dân-cư. Các nhà cao-tầng, biệt-thự lộng-lẫy đua-nhau mọc lên như nấm. Người dân-nghèo rỉ-tai nhau, biệt-thự đó là của ông Giám-Đốc, biệt-thự kia là của bà vợ-bé ông Giám-Đốc, công-ty dệt may nọ có phần hùn của ông Bí-thư, vân-vân… Toàn là tài-sản của các “đầy-tớ nhân-dân”. Các “đầy-tớ nhân-dân” ngon-lành như vậy, trong khi những người chủ lại phải sống cầu-bơ cầu-bất, không nhà không cửa, trên răng dưới thìu-biu, và đang bị xô-đuổi ra khỏi thành-phố. Người dân thắc-mắc, không hiểu các “đầy-tớ” của họ đào đâu ra tiền để mua xe-hơi đẹp, xây nhà cao cửa rộng, ăn xài phung-phí, nếu không phải từ đồng tiền bất-chính, mánh-mung, buôn-lậu, tham-nhũng, hối-lộ, đầu-cơ tích-trữ mà ra? Có bao nhiêu người trở nên giầu-có mà không làm những chuyện bất-lương? Thật ra, chỉ có trời mới biết.

Người dân cứ ùn-nhau từng ngày tới đây để tìm đất sống. Có những người từ phía bắc chạy vào bán sách báo và băng đĩa lậu, từ phía nam chạy ra buôn thúng bán bưng. Dù “nghề-nghiệp” gì, họ vẫn là những người cùng-khổ trong xã-hội. Họ đến thành-phố này để kiếm tiền, vì dù sao ở đây vẫn dễ sống hơn nơi chôn nhau cắt rốn của họ. Lực-lượng “không của-cải” này tăng nhanh với vận-tốc chóng mặt. Chẳng ai rỗi hơi làm thống-kê, nhưng ước-tính số người này có lúc đã tròm-trèm ba ngàn. Không nói người ta cũng thừa biết, thành-phố càng lúc càng mất vệ-sinh, mất trật-tự, và đã xảy ra nhiều tệ-nạn. Đĩ-điếm, trộm-cắp, cướp giật, giết người, đánh lộn,…ì-xèo suốt ngày đêm.

Để xây-dựng tốt-đẹp một thành-phố theo mô-hình mới, Ủy-ban Nhân-dânlập một đội “Thanh-niên xung-kích”, kiên-quyết “khắc-phục khó-khăn” trong “công-cuộc chiến-đấu” với những người nghèo. Từ đấy trở đi, không ngày nào là không có những vụ bố-ráp, có ngày cả chục lần. Chính-quyền còn “khích-lệ”, ai gọi bắt được “đối-tượng” nào, người ấy sẽ được thưởng hai trăm ngàn đồng. Thế là mạng sống của người dân nghèo trở nên cao giá. Khắp mọi nơi được lùng-sục kỹ-lưỡng. Người ta chờ được “tưởng-thưởng”, vì được thưởng cũng là một hình-thức lao-động. Có tay nhờ thế đã trở thành triệu-phú trong một thời-gian ngắn.

Người dân nghèo rất sợ bị bắt. Nếu bị bắt, họ và gia-đình chẳng những chết đói, mà chính bản-thân họ còn bị mất tự-do. Dù đặt tên là gì, trại “tập-trung”, trại “cưu-mang” hay trại “tình thương” đều thiếu điều-kiện vệ-sinh, thiếu điều-kiện chăm-sóc y-tế, và vì vậy, có rất nhiều bệnh-tật. Khi bị bắt vào đó, các “trại-viên” phải tuân-theo kỷ-luật; làm việc, học-tập, ăn, ngủ, đều theo giờ-giấc. Người nào học-tập “tiến-bộ” mới hy-vọng được trở-về với gia-đình.

Quê thằng Trẻm ở mãi huyện ngoại-thành. Ở đó chỉ có núi và đất đá, ngoài một chút đồng-ruộng cũng chỉ “cầy lên sỏi-đá”. Lấy gì mà ăn? Nó phải lần-mò ra thành-phố để kiếm chác. Mẹ và mấy em nó còn ở nhà quê.

Thằng Trẻm đang xốc lại cái quần thì con Sắt chạy tới. Nó thở hổn-hển:

-Ê, Trẻm. Tại-sao mày không đợi tau chạy cùng?

-Lo chạy thấy mụ nội, ở đó mà đợi. Mày trốn ở mô vậy?

Con Sắt chỉ tay về phía dãy nhà mới xây:

-Ở đằng kia.

-Ở đó có an-toàn không? Sao mày không chạy ra đây?

Con Sắt vênh mặt:

-An-toàn chứ sao không? Lần nào bị bố-ráp, tau cũng chạy tới đó. Mấy đứa kia chạy ra núp ở thùng rác, ở bến xe, bị núm hết. Lính mã-tà đứng đầy ở đó.

-Mày có thấy đứa nào bị núm không?

-Thiếu gì. Thằng Dỏn đánh giầy như mày nè. Chị em con Túp đi xin tiền nè. Có cả ông già Khuy bán vé-số nữa. Tội-nghiệp, ổng già rồi, chạy đâu nổi. Lĩnh mã-tà lấy hết vé số của ổng.

Con Sắt làm “nghề” ăn xin. Nó nhỏ hơn thằng Trẻm một tuổi nhưng khôn-lanh hơn nhiều. Nó ra thành-phố trước thằng Trẻm ít lâu, nên gần như những hang cùng ngõ-hẻm nào ở đây nó đều biết. Tuy nghèo nhưng con Sắt rất có tình-nghĩa với bạn-bè. Có cái bánh hay cây kẹo gì nó đều để-dành cho thằng Trẻm.

Lúc đó bà Mão gánh hàng-rong vừa chạy tới. Trên đôi quanh gánh của bà còn những trái cóc, xoài, ổi, chôm-chôm, vân-vân. Ngày nào bà cũng gánh hai thúng đầy trái cây ở hai đầu, đi bán lòng-vòng khắp thành-phố. Không biết lời lãi được bao nhiêu.

-Tổ mẹ nó. Truy-quét hoài. Buôn-bán răng chừ? Có khi mô như ri hè?

Con Sắt hỏi bà Mão:

-Bác thấy mã-tà còn đó không?

Bà Mão lắc đầu;

-Chừ không thấy. Mà bọn đó như ma-quỷ hè. Chúng nó tới bất-tử lắm. Biết mô tê mà mò.

Gần một tiếng sau, không-khí bắt-bớ mới lắng-dịu. Không ai hẹn ai, mọi người lại tụ-tập trong một góc-tối sau quán cà-phê Nhịp-Tim. Chỗ này tiện-lợi, bên phải bên trái đều có nhà-hàng, khách ăn uống ra vào tấp-nập. Mười lăm phút sau, con Sắt kiểm-tra lại “quân-số”. Thiếu ông già Khuy, thằng Dỏn, chị em con Túp.

Thằng Trẻm nói bằng giọng buồn-buồn:

-Tội thằng Dỏn. Cuối tháng này nó không có tiền gửi về cho cha mẹ nó.

Con Sắt bỉu-môi:

-Mày không lo mày đi. Mày có đủ tiền gửi về cho mẹ mày không?

Thằng Trẻm suy-nghĩ một lát, rồi lắc-đầu. Mấy tuần nay mã-tà bố-ráp dữ quá. Có lần tưởng chạy không kịp. Nó đang đánh giầy cho một “ghê” ở quán Nhịp-Tim, gần xong thì mã-tà nhào vô. Nó chỉ kịp quơ thùng đồ-nghề rồi co giò chạy. Không kịp lấy tiền. Những lần trước các “ghê” biết mặt nó, gặp lại trả sau cũng được. Lần này gặp “ghê” lạ. Đành phải bỏ.

Nhịp-Tim là quán cà-phê đặc-biệt, không hẳn vì cà-phê ngon, mà là quán này chỉ dành cho những người đồng giới-tính, nhất là vào những ngày nghỉ cuối tuần. Quán lập ra với mục-đích làm nơi giải-đáp thắc-mắc, cố-vấn, an-ủi cho những người đồng giới tính. Ngoài ra, quán còn là điểm hẹn của những người thiếu may-mắn này, là nơi truyền-bá kiến-thức phòng-ngừa bệnh HIV, phát bao cao-su miễn phí, là nơi nghe nhạc, và ca hát trong không-khí “thân-mật”.

Đã rất nhiều lần thằng Trẻm nhìn thấy những cập “ghê” đứng trong góc-tối phía sau quán cà-phê Nhịp-Tim. Những cặp này rù-rì, vuốt-ve, hôn-hít, thậm-chí làm tình cả với nhau nữa. Hồi mới ở quê ra, nhìn thấy cảnh này, nó ớn lắm. Bây giờ quen rồi. Nó vẫn nghĩ, mình không làm gì họ, họ cũng chẳng làm gì mình.

Bất-chợt con Sắt lên tiếng:

-Thôi, tao “đi làm” đây. Từ chiều tới giờ không đủ bữa cơm tối.

Nói xong, nó bỏ đi vô một tiệm ăn gần đó. Thằng Trẻm thấy cái áo vá chằng vá chịt của con Sắt mà động lòng. Cái áo vá đến nghìn miếng, chứ không phải chỉ vài miếng. Nó cũng xách thùng đồ-nghề, rồi bước theo. Vào bên trong nhà hàng, nó thấy con Sắt đang đến từng bàn, chìa tay: “Con lạy ông, lạy bà, cho con vài đồng. Từ sáng đến giờ con chưa có gì ăn…Lạy ông, lạy bà…”

Có một bàn khách vừa tính tiền bước ra. Thấy hai tô phở còn nước, con Sắt tiến ngay lại như sợ đứa khác chộp trước, rồi rất “chuyên-nghiệp”, nó nhanh-nhẹn đổ hai tô vào nhau, không rớt ra ngoài một giọt, bưng lên húp lấy húp để. Cay quá. Ngon quá. Nó chỉ húp ba, bốn hơi là hết nhẵn tô phở. Chưa thấm-tháp.

Thấy bàn nào có người mang giầy là thằng Trẻm xà tới: “Mời chú…mời bác đánh giầy?” Nó không nhớ mình đã học câu chào mời lịch-sự, lễ-phép đó từ đâu, nhưng chắc hẳn phải tập vài lần. Vì nhà nghèo, nó chỉ được học đến hết lớp một, rồi phải đi chăn trâu mướn. Đến khi trong xã không ai có trâu để cho nó chăn, nó phải đi làm mướn. Đến khi không ai có việc để cho nó làm, nó phải bỏ ra thành-phố đánh giầy. Nó đang sợ mai mốt không có ai mang giầy, người ta chỉ mang dép nhựa, hoặc guốc gỗ, lấy đâu ra giầy để cho nó đánh?

Nó còn nhớ hồi học xong lớp một, má nó biểu “thôi, học vậy là đủ rồi. Chữ có nuôi nổi cái miệng đâu. Lo mà kiếm tiền.” Thế là nó nghỉ học. Ở dưới quê nó còn có nhiều người mù chữ. Họ không đọc được những khẩu-hiệu viết trên tường. Có sao đâu.

Một anh thanh-niên gọi nó lại, rồi chỉ đôi giầy. Nó hiểu ngay, ngồi xuống, mở thùng đồ-nghề ra, rồi bắt-đầu “thao-tác”.

Thằng Trẻm thích nhất là đánh giầy cho các anh thanh-niên. Họ ít khi kỳ-kèo “bớt một thêm hai”. Nhất là khi họ đi với bồ.

Thằng Trẻm không ưa dân Tây ba-lô. Các ông Tây này rất keo-kiệt. Gần như không bao giờ họ mang giầy. Tứ thời chỉ lẹp-xẹp đôi dép dơ-dáy. Họ chỉ có trong ba-lô hai hay ba bộ-đồ là nhiều. Không dễ gì ăn được một đồng của các ông Tây này.

                              

                                                 ■

Một hôm vào buổi tối, sau khi đánh xong mấy đôi giầy, thằng Trẻm ngần-ngừ mãi mới nói với con Sắt:

- Ê Sắt, một tuần rồi tau chưa tắm.

Con Sắt la-hoảng:

-Chu-choa. Thiệt không?

Thằng Trẻm lộ vẻ mắc-cở:

-Thiệt. Tau không biết tắm ở mô?

Con Sắt có vẻ thành-thạo:

-Ở sông. Gần đây có sông nì.

Thằng Trẻm bối-rối:

-Tau biết rồi, nhưng mà răng thay quần áo? Để quần áo trên bờ, chúng nó lấy mất.

Con Sắt cười ngặt-nghẽo:

-Cứ thay đại. Ai thấy mô mà sợ rứa? Đi, lần này tau gác cho. Đừng sợ.

Hai đứa lần-mò ra phía bờ sông. Con sông chạy dài theo bề dọc thành-phố, lững-lờ. Con Sắt chỉ cho thằng Trẻm tới một chỗ vắng. Lúc này trời tối như bưng. Thằng Trẻm yên-tâm cởi đồ. Con Sắt ngồi trên bờ vừa coi đồ, vừa đợi thằng Trẻm.

Thằng Trẻm nhảy xuống nước. Mát vô-cùng. Nó kỳ-cọ kỹ-lưỡng cái thân-mình gầy-gò như cọng bún. Chưa khi nào nó được tắm mát như bữa ni. Trời tối đen không một vì sao. Thằng Trẻm vừa tắm vừa nghĩ-ngợi. Mai-mốt “làm ăn” có tiền, nó sẽ về quê thăm mẹ và các em nó. Nó sẽ mua làm quà cho mẹ nó mấy chai dầu xanh. Mẹ nó thích dầu xanh lắm. Nó sẽ mua đồ-chơi cho hai đứa em nữa.

Ngồi trên bờ, con Sắt chợt nghe tiếng chân người chạy huỳnh-huỵch mỗi lúc một rõ.

-Bắt lấy nó. Bắt lấy nó…

Con Sắt thấy một bóng người lao nhanh phía đằng trước. Có mấy bóng khác đuổi theo.

-Phải bắt con này mới được. Nó làm đĩ đó. Tau bắt hụt nó mấy lần rồi.

Rồi lại có tiếng chân chạy thật nhanh. Con Sắt hoảng hồn. Công-an có thể bắt cả nó. Nó xách thùng đồ nghề và quần áo của thằng Trẻm, chạy đến chỗ thằng nhỏ đang tắm:

-Ê, Trẻm. Mã-tà tới kìa. Đồ của mày nè. Tau chạy cho kịp.

Nói xong, con Sắt quăng vội thùng đồ-nghề và quần-áo của thằng Trẻm vào một góc-tối, rồi ù-té chạy. Thằng Trẻm hoảng-hồn. Nó suy-tính rất nhanh. Để bộ đồ trên bờ không khác gì “lạy ông, tui ở bụi này”. Nó lồm-cồm chạy lên bờ, dấu thùng đồ-nghề và bộ quần-áo vào bụi cây, rồi nhẩy xuống nước. Nó lặn một hơi ra tới con tầu nhỏ đang thả neo gần đó, núp phía đuôi lái.

Lại có tiếng chân chạy trên bờ. Những vệt đèn-bấm lóe lên rồi tắt ngấm. Có tiếng người hỏi lớn như la-lối:

-Mô? Nó mô?

-Tui thấy bóng nó chạy qua đây.

-Phải bắt cho được mấy đứa này. Nếu không, tui ăn ngủ không yên.

Thằng Trẻm chết cứng dưới nước. Cũng may, nó là đứa bơi giỏi. Hồi còn dưới quê, bọn nhóc rất phục nó. Bỗng nhiên có tiếng người làm nó nín thở.

-Tui bắt được một đứa đây rồi. Chà, con này ngoan-cố dữ hè.

Có tiếng con gái la khóc:

-Em lạy các anh. Em thề lần này sẽ bỏ nghề. Lạy các anh thương. Đừng đánh em…

-Đ…mạ, mày ngoan-cố quá, không đánh không được.

Thằng Trẻm nghe thấy tiếng tát tai, tiếng chân đá, tiếng huých cùi chỏ, tiếng chửi mắng, xen lẫn với tiếng kêu-la, than-khóc.

-Ui cha, lạy các anh tha cho em.

Ngay lúc đó có tiếng liên-lạc bằng điện-thoại di-động:

-Báo-cáo anh…tui bắt được con nhỏ này. Nó ẩn trong dãy nhà đang xây. Nó là bọn ăn xin.

Hình như tiếng con Sắt, thằng Trẻm nghe đứt khúc:

-Em…đói… quá. Xin… anh…tha cho… Em chừa…Dạ…em xin thề…

-Đừng có thề ẩu. Tau bắt hụt mi mấy lần rồi, bữa ni mới được. Rục xương nghe con.

Một hồi lâu, thằng Trẻm thấy hoàn-toàn yên-tĩnh mới dám bơi vào bờ. Nó mặc lại bộ quần áo cũ, kéo thùng đồ-nghề ra khỏi bụi cây. Con Sắt bạn nó đâu? Nó nghiến răng, tức-tửi:

-Răng bọn mã-tà ác rứa nì? Sắt ơi, Sắt ơi…

Trời tối đen như mực.

 

Hà-Việt-Hùng

(Trích trong Tập-truyện Góc-Tối)